TIN TỨC
  • Truyện
  • Hai người mẹ | Truyện ngắn của Lê Thanh Huệ

Hai người mẹ | Truyện ngắn của Lê Thanh Huệ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-09-13 17:25:26
mail facebook google pos stwis
3347 lượt xem

LÊ THANH HUỆ

Lúc mới nhìn thấy xác thằng Mỹ chết, đầu gối lên mộ anh Hai, bà Bảy thấy hả hê trong lòng. Nếu mày biết xác thằng Hai con tao, bị chúng mày buộc vào xe lội nước kéo cho tới lúc vướng vào gốc cây, xé làm đôi vẫn chưa chịu buông tha, chỉ vì nó không chịu buông súng đầu hàng chúng mày. Nằm đó mà chờ đồng bọn của mày đem túi nhựa đến bọc xác mang về Sài Gòn, phủ cờ Huê Kỳ đưa về Mỹ. Coi chừng, cờ tụi bây không đủ để gói xác tụi bay nếu không cút về nước cho sớm.

Bà Bảy quay lưng ra về. Được chục bước chân, bà đứng lại. Bà có cảm giác đôi mắt xanh của thằng Mỹ dại đi vì đau đớn vẫn cố nhìn theo bà cầu cứu, van xin. Cúi xuống, bà vuốt mắt cho nó. Cặp mắt lạnh ngắt, cứng đờ của thằng Mỹ nhận được hơi ấm từ bàn tay bà, mi mắt mềm ra, cụp xuống. Giờ thì thằng Mỹ trắng vĩnh viễn đi vào giấc ngủ ngàn thu. Chết còng queo, đau đớn như vậy khó coi lắm. Tiện tay bà sửa lại thế nằm cho nó cho ngay ngắn hơn. Bà kéo bàn tay phải của nó ra khỏi túi áo ngực. Theo bàn tay, tấm ảnh đen trắng cùng phong thư rơi ra. Bà Bảy nhặt lên xem. Trong ảnh, người phụ nữ đứng tuổi có vẻ mặt đăm chiêu, mái tóc sáng màu, đôi mắt xám đầy vẻ lo lắng đang nhìn lại bà. À, ra vậy: Trước lúc chết mày còn nhớ đến má của mày. Sao chúng mày không nhớ đến má của những đứa trẻ khi chúng mày trút bom, trút đạn lên chúng. Bà cau mặt nhét trả lá thư và tấm ảnh vào túi áo tên lính Mỹ rồi quày quả bước đi.

Đêm buông, pháo bắn gần, tiếng nổ nghe rất âm. Bà Bảy ôm thằng Út vào lòng, nhớ tới tấm ảnh hồi chiều. Giờ này, má nó nóng ruột lắm đây. Bà đâu biết được xác con mình đang nằm mãi tận mảnh đất xa xôi này, lạnh lẽo, không một ánh đèn, không một người ngồi bên… Đáng kiếp lính xâm lược, chỉ tội cho má nó thôi. Có lẽ nó bị đụng trận hồi sáng ở ấp bên với du kích. Không hiểu làm sao, với cái bụng thủng như vậy mà nó chạy lạc đến tận đây, tìm đến đúng chỗ mộ thằng Hai mà chết. Thôi, nằm đó đi, ngày mai tụi nó kiếm, đem về.

Sáng sớm, trên đường ra ruộng, bà Bảy ghé mộ anh Hai. Pháo phạt bụi tre bùng nhùng, tơi tả. Một quả nổ gần mộ anh Hai, tiện mất đôi chân thằng Mỹ và xoay thân nó thành nằm nghiêng. Nhờ nấm mộ che chắn, khuôn mặt nó vẫn còn nguyên vẹn. Mày chết hai lần, mà lần này là do chính đồng bọn của mày giết mày đó. Bà Bảy cúi xuống, lật hắn lại, lấy chiếc nón che cho ánh nắng sớm khỏi chiếu vào mặt nó. Không biết đến bao giờ thì tụi nó mới lần ra dấu mày chạy lạc để đến đây đem xác mày về.

Buổi chiều, bà Bảy lại ra đồng. Đi ngang cái xác đã đen lại dưới nắng, bà thấy mủi lòng. Vậy là chúng nó bỏ mày luôn rồi đó. Thôi thì chết đâu chôn đó. Ở đất nước này, đâu cũng vậy thôi; người chết không thân nhân đến nhận thì dân ở đó chôn, hương khói như người quá cố sống ở đó. Tao thay má của mày chôn mày vậy.

Bà Bảy về nhà, lẳng lặng gom hai tấm vải nhựa cũ, mấy sợi dây và cái cuốc. Mình bà loay hoay bó cái xác, đào hố chôn cạnh bụi tre, cách mộ ông Bảy và anh Hai chục bước chân. Bà không nói cho ai biết. Nói làm gì, nó là thằng lính Mỹ, nhưng đã chết rồi, cũng là cái xác của một con người. Một cái xác người trên đất của bà, bà cho miếng đất để chôn. Đó là lẽ đương nhiên. Có điều nó là tên lính xâm lược, không thể sống gửi nạc, thác gửi xương ở đây được nên bà chôn tạm. Bà bó xác vào vải nhựa không phải là theo cái cách chôn cất của lính Mỹ mà để sau này dễ bề đem về bên Mỹ.

Đã chôn là có mả. Dù nhỏ, dù không được cây nhang cắm chân thì cũng là mộ. Đất cát pha qua vài mùa mưa, nấm mộ thấp tè xuống, cỏ mọc tràn lên. Phải mất mấy năm sau, một lần lưỡng lự, bà bớt cho nó một cây nhang. Bà lầm rầm: “Xuống dưới đó, biết tội của mày rồi thì ráng ăn năn, ráng phù hộ cho quân giải phóng đánh giỏi, thắng lớn. Có vậy mới mau hòa bình, đặng tao mới gởi được mầy về bển với má mày, với bà con họ hàng của mày”. Đối với bà Bảy, không chỉ những người sống ra trận mà hồn thiêng các liệt sĩ, những người đã khuất vì bom đạn Mỹ và hồn thiêng cha ông đều cùng ra trận, chở che cho đàng mình, dẫn lũ giặc vào nơi đền tội. Lúc sống làm việc tội lỗi, chết rồi sẽ phải ăn năn tìm cách chuộc tội thì mới coi là linh hồn con người được. Bà cắm nhang. Khói từ cây nhang cháy đỏ trên mộ anh Hai, nhưng chưa đến nơi, cơn gió thoảng đẩy nó bay tạt đi, mất hút vào không trung. Bà Bảy đứng nhìn, lắc đầu, lặng lẽ trở về nhà.

*

Sau năm 1973, khi Mỹ rút hết quân về nước, trong đám giỗ anh Hai, bà Bảy có khấn thêm bảo anh Hai mời thằng Mỹ. Sợ con mình chạnh lòng, bà phân trần thêm: “Đồng bọn của nó đứa còn sống cũng đã về đến xứ, sum họp gia đình, đứa chết trận cũng được chôn cất nơi quê nhà. Một mình nó ở lại đây, côi cút lắm. Má nó ở tận bển, làm sao biết nó còn hay mất đặng cầu nguyện cho nó đỡ lạnh lùng”.

Trong niềm vui miền Nam hoàn toàn giải phóng, má Bảy còn có niềm vui nữa: gặp lại anh Ba, con của má. Anh Ba là bộ đội chủ lực miền được cử ra miền Bắc học thành kỹ sư, cán bộ, giờ được tăng cường về lại Sài Gòn. Đã mấy năm trời má bặt tin, ngày đêm lo cho con. Giờ con của má trở về lành lặn, lại được bà con miền Bắc cưu mang, lo cho học hành đến nơi, đến chốn, còn gì vui hơn.

Niềm vui chưa trọn, chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra. Anh Út tình nguyện nhập ngũ, cầm súng bảo vệ biên cương tổ quốc. Tuy hàng tháng nó có gởi thơ về, nhưng nó là con út. Má làm sao yên lòng được khi nó ở xa má.

Lo lắng, rồi má tự an ủi mình cho dịu bớt nỗi lo. Má tự nhủ: những người mẹ nơi con mình đóng quân sẽ cưu mang nó như má và những người mẹ khác từng cưu mang những người con từ khắp mọi miền đất nước chiến đấu vì đất nước mình. Không những tự nhủ, tự an ủi mà thực sự má Bảy tin như vậy. Không có thành lũy nào đầy yêu thương, tin cậy và vững chắc bằng tấm lòng người mẹ.

Chiến tranh đã đi qua mảnh đất này từ lâu, má Bảy nào có bớt được gánh nặng lo toan. Ngoài công việc đồng áng, việc nhà, má còn lo thăm hỏi, giúp đỡ các má có con là liệt sĩ khi ốm đau, lúc khó khăn. Cùng các má động viên sắp nhỏ có lệnh nhập ngũ. Công việc của Hội Mẹ chiến sĩ. Rồi lo chắt bóp có tiền giúp gia đình anh Ba, gom đủ tiền xây dựng nhà chờ anh Út ra quân…

Mộ ông Bảy, mộ anh Hai được đưa vào nghĩa trang liệt sĩ huyện. Còn trơ lại mộ thằng Mỹ trắng càng thấp hơn, cỏ mọc xanh rờn như muốn xóa sạch dấu vết.

Ngày tảo mộ, sau khi ra nghĩa trang liệt sĩ thắp nhang, lo cho phần mộ ông Bảy, anh Hai, má bớt chút thời gian làm ruộng để giãy mả và thắp nén nhang cho thằng Mỹ. Anh Ba biết chuyện, hỏi, má thủng thẳng:

Mộ thằng Mỹ. Nó chết tại đây. Má không biết gia đình nó ở đâu. Con nghĩ coi có cách chi nhắn họ đến đem nó về.

Sực nhớ, má lục hòm cũ lấy ra bức ảnh và phong thư má đã cất giùm thằng Mỹ hơn hai chục năm. Tấm ảnh ngả màu vàng úa. Phong thư bị gián gặm mất rìa, coi giống tập giấy vụn. Anh Ba liếc qua, không đọc được.

Anh mang hết về Sài Gòn. Tuần sau anh về, nói với má đại để: Người lính Mỹ đó tên là Michel Browning. Lá thơ là của bà Katherine Browning gửi cho con. Má Bảy sốt ruột ngắt lời con:

Đừng đem mấy chữ rách đó ra dọa má. Gọi là thằng “Mai-cơn”, bà “Mai-cơn” là được rồi. Nói tiếp cho má nghe coi.

Dạ, trong thơ bà “Mai-cơn” nói bà rất lo lắng, đêm ngày cầu Chúa phù hộ cho con bà được bình an. Bà chỉ mong đến ngày con bà mãn hạn quân dịch để trở về quê hương. Chiến tranh do chính người Mỹ gây ra ở Việt Nam. Đừng để thanh niên Mỹ hiểu lầm, sang Việt Nam gieo rắc chết chóc cho người dân bản xứ vô tội và cho cả chính mình…

Má biết rồi - Má Bảy nói như là chuyện này má đã biết từ lâu - Hơn hai chục năm bả đứt ruột chờ con! - Má chép miệng: - Chết hơn hai chục năm rồi mà chưa có được ngày giỗ, tấm bia…

Anh Ba gạt đi:

Chết là hết. Người Mỹ không giỗ chạp, ma chay như bên ta.

Má Bảy rầy con:

Chính vì tụi lính Mỹ, tụi ác ôn cho rằng chết là hết, không sợ cả sự trừng phạt. Phải chi tụi nó lỡ tới đây rồi, biết nhập gia tùy tục, lo chuyện mần ăn với người Việt thì đâu đến nỗi... Mà thôi, người đã mất, đừng nhắc chuyện không phải của họ.

Má Bảy ra nghĩa trang tìm mộ Năm Thanh. Năm Thanh hy sinh trong trận càn hôm đó. Ngày năm Thanh hy sinh cũng là ngày “Mai-cơn” chết. Người sống có nhà cửa, chết đi có mộ, bia. Má biểu anh Ba làm cho Michael cái bia và dặn khắc thêm: sanh ở Hoa Kỳ, mất tại Việt Nam ngày… tháng… năm… Có bia rồi má đem đặt vào cuối mộ, nơi có mấy nhánh tre vươn ra. Đám giỗ của Michael cũng có mâm cơm, nén nhang nhưng khác với đám giỗ ông Bảy, anh Hai, không rình rang, không có nước mắt, không có ai đến dự, thậm chí không ai biết ngoài má Bảy.

*

Cả ấp, cả xã xôn xao về việc có một bà đầm cùng với anh phiên dịch cũng là tài xế đến thăm nhà má Bảy. Hai bà già, một to, cao mập ú; một thấp bé, gầy yếu, chỉ giống nhau mái đầu bạc trắng ngồi chuyện trò với nhau cả tiếng. Đám nít nhỏ tò mò thấy rõ ràng má Bảy đưa bà đầm, anh phiên dịch ra góc ruộng nơi có lũy tre nhà má Bảy. Má Bảy thắp nhang, còn bà đầm làm dấu thánh, cầu nguyện. Bà đầm khóc. Nước mắt dễ lây, má Bảy cũng sụt sịt. Khói nhang mỏng mảnh bay lên, do dự lượn quanh rồi chia làm hai nửa rụt rè ôm gọn hai mái đầu bạc trắng. Hình như bà đầm vịn vào vai má Bảy và má Bảy đưa tay dìu bà đầm vào nhà.

Đầu giờ chiều, họ cùng ra ủy ban xã. Má Bảy nói vắn tắt bà “Mai-cơn” muốn đóng góp chục ngàn đô (USD) để xây thêm phòng và mua sắm thiết bị cho trạm xá xã. Đồng chí chủ tịch xã bối rối, sợ có điều không minh bạch, mới hỏi nhỏ anh phiên dịch. Anh này nói đó là số tiền mà bà Browning biếu má Bảy nhưng má không nhận. Sau khi bàn bạc kỹ, hai bà thống nhất như vậy. Má Bảy sốt ruột nhắc:

Chuyện không có chi. Nói ra dông dài chỉ mất công. Bay nhận đi cho bả được an ủi phần nào, dưới suối vàng, vong linh con bà cũng được cứu rỗi đôi chút. Bà khổ vì mất con, lại cực lòng do những tội ác lính Mỹ trong đó có con bà gây ra cho Việt Nam.

Chiều đó, má Bảy giữ bằng được bà Browning và anh phiên dịch dùng bữa cơm chiều. Má nói: “Một bữa dù là cơm rau cũng phải ăn cho má không áy náy vì để khách xa hàng chục ngàn cây số đến đây phải nhịn đói ra về…”.

Tiễn bà Browning ra xe, má Bảy hứa trong thời gian chờ Chính phủ Mỹ, được phép của Chính phủ Việt Nam cho đưa hài cốt Michael Browning về Hoa Kỳ, má Bảy sẽ chăm sóc phần mộ của Michael theo phong tục ở đây.

Dùng dằng, bà Browning lấy khăn mùi soa lau nước mắt. Má Bảy rưng rưng. Má cảm thấy như mình quen bà Browning đã lâu, lâu lắm rồi và lần chia tay này cũng là lần cuối. Vĩnh viễn hai người mẹ sẽ không được gặp nhau nữa… Có phải nỗi đau của những người mẹ gặp nhau ở đạo lý, tình người nên có chung tiếng nói. Có phải sự ân cần của má Bảy là vì không muốn làm cực lòng thêm cho người mẹ Mỹ đã trải qua gần một vạn ngày đêm ngóng trông tin tức đứa con mất tích trong chiến tranh Việt Nam và luôn khắc khoải hy vọng nó còn sống, nó trở về. Để rồi đến hôm nay, bà đau đớn biết con mình đã chết, thật sự chết ngay tại cái xứ sở đầy tình người, thiện chí, vị tha và luôn lo ươm mầm cho sự sống của đời sau.

Có phải chính vì vậy mà má Bảy không nói cho bà Browning dù là một chút về chồng của má, về con của má đã chiến đấu anh dũng và hy sinh như thế nào. Và cả cho đến hôm nay má vẫn còn canh cánh trong lòng nỗi lo mình vẫn chưa làm tròn phần việc của chồng con để lại…

Long An, ngày 10-01-1995

Bài viết liên quan

Xem thêm
Dưới bóng núi – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Mùa mưa ở vùng biên như một lời thách thức của thiên nhiên. Những con đường mòn dẫn vào bản bỗng hóa thành dải bùn đặc quánh, trơn như mỡ. Mây sà xuống tận mặt người, núi rừng hùng vĩ, hoang dại, đẹp đến nghẹt thở nhưng cũng dữ dằn không kém. Con đường này Khương đã thuộc đến từng khúc cua, từng con dốc và anh biết chỉ cần lỡ tay là sẽ lao xuống vực sâu hun hút. Vượt qua những khó khăn ấy, bản Khe Nặm hiện ra như nốt nhạc bình yên giữa bản giao hưởng dữ dội của núi rừng.
Xem thêm
Bàn tay vịn - Truyện ngắn của Hội An
Truyện ngắn in ở số 153 tạp chí Văn nghệ TP. HCM
Xem thêm
Bố vợ - truyện cực ngắn của Lê Thanh Huệ
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 40 tháng 9 năm 2025.
Xem thêm
Chuông chùa Chân Giáo – Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Mùa đông năm ấy đến sớm. Mới cuối tháng mười âm lịch mà gió bấc đã rít lên từng đợt, khí lạnh xuyên da thịt. Gió quất nghiêng những ngọn cây bồ đề và gốc đại quanh chùa Chân Giáo. Không khí buốt giá và ảm đạm, sương đọng đầy trên cành khô, thấm cả vào đá, vào gạch, vào những pho tượng Phật im lặng như thời gian đã đông cứng lại, đóng khung vào những hình hài cụ thể.
Xem thêm
Giấc mơ hoa cúc vàng - Truyện ngắn của Tàn Tuyết
Tàn Tuyết tên thật là Đặng Tiểu Hoa, sinh năm 1953, là một nhà văn và phê bình văn học tiên phong của Trung Quốc. Những năm gần đây, Tàn Tuyết liên tục được đề cử trao giải Nobel văn học. Một số tác phẩm của bà đã được xuất bản ở Việt Nam như: Hoàng Nê phố, Bảng lảng trời xanh, Đào nguyên ngoài cõi thế, Những chuyện tình thế kỉ mới, Phố Ngũ Hương…
Xem thêm
Hoàng hôn trên bờ sông Main - Truyện ngắn của Trần Thủy
Tôi gặp em vào buổi chiều hôm ấy. Khi ánh mặt trời thoắt vàng như mật choàng ngập trên từng ngôi nhà rồi bất chợt lóng lánh màu hổ phách, đổ sang sắc rượu chát thành một vệt dài trầm mặc phủ kín đôi bờ sông Main.
Xem thêm
Mái tranh nghèo của mẹ - Truyện ngắn Đặng Chương Ngạn
Truyện ngắn được Giải Nhì (không có giải nhất) Giải thưởng Quỹ nhà văn Lê Lựu 2018-2020
Xem thêm
Bay trong gió núi - Truyện ngắn Vừ Thị Mai Hương
Tôi nằm đây nghe tiếng lục lạc kêu. Thứ âm thanh đinh đinh đang đang mỗi buổi chiều người ta lùa đàn bò đi qua khiến cho linh hồn tôi cảm thấy thật rộn ràng, vui tươi và khoan khoái lạ kỳ. Cái cảm giác này trước đây chưa bao giờ tôi có được. Giờ thì, tôi đã cảm nhận thấy thật rõ ràng thứ âm thanh đó, cùng với hương vị nồng nồng âm ấm của đất, mùi chan chát mằn mặn của đá, mùi thơm thoang thoảng của cỏ voi, mùi ngòn ngọt chua chua của những bông hoa tam giác mạch ai đó làm vương hạt trên nấm mộ tôi.
Xem thêm
Người phụ nữ nhỏ nhất thế giới - Truyện ngắn của Clarice Lispector
Trong tận vùng sâu thẳm của châu Phi xích đạo, nhà thám hiểm người Pháp Marcel Pretre, một thợ săn và kẻ sành đời, đã bắt gặp một bộ tộc Pygmy nhỏ bé đến đáng ngạc nhiên.
Xem thêm
Chiếc bọc nhung - Truyện ngắn Võ Đào Phương Trâm
Đốp! Con heo đất vỡ toang, mớ tiền nằm xen lẫn những mảnh vỡ, lăn lóc trên nền nhà gạch tàu cũ kỹ, Khiêm nhanh tay mở mấy tờ giấy bạc, bung ra cho thẳng thóm. Những tờ giấy bạc nhăn nhúm, phai màu vì nhuốm mồ hôi và nằm xộc xệch trong cái túi quần khi Khiêm nhét vội.
Xem thêm
Hận thù và Yêu thương – Truyện ngắn Đông Sơn Lữ Khách
Có những vết thương chiến tranh tưởng chừng đã ngủ yên trong ký ức, nhưng chỉ cần một ký hiệu, một hình xăm, một cái tên… tất cả lại ùa về như ngày hôm qua. Thế nhưng, giữa bóng tối ấy, tình yêu của một chàng trai Việt và một cô gái Hàn đã thắp sáng hi vọng – hi vọng rằng hận thù rồi cũng sẽ nhường chỗ cho yêu thương.”
Xem thêm
Kịch hay – Truyện ngắn Lê Hứa Huyền Trân
Vài tấm hình được quăng trên chiếc bàn kính, bên trong hiện rõ hình hai người dường như có cảm giác đang tựa vào nhau nhưng vẫn còn do dự vì bị sự ràng buộc bởi miệng lưỡi của người đời. Bóng chiều tà từ từ đổ xuống khung cửa sổ bằng kính của ngôi nhà sang trọng. Thứ ánh sáng cuối ngày có màu hồng đậm vẫn kịp hắt vào khiến đôi mắt người phụ nữ đột nhiên cũng ửng hồng và bắt đầu đong đầy hoàng hôn trong đó.
Xem thêm
Lời thề sinh tử - Truyện ngắn của Phạm Thanh Thúy
Thuôn không muốn lão Nhạc vào nhà. Lão Nhạc già lụ khụ, ăn mặc lôi thôi, dù con cái lão cũng chẳng đến nỗi nào.
Xem thêm
Người đến từ nghìn trùng – Truyện ngắn Chu Phương Thảo
Tôi sinh ra ở một làng chài nhỏ, nơi những triền cát trắng kéo dài đến tận chân trời, nơi gió và sóng chạm nhau cùng thì thầm những bản tình ca êm dịu. Tuổi thơ tôi trôi qua như một giấc mơ dịu ngọt, vắt qua những buổi chiều vàng nắng, theo tiếng cười hồn nhiên vang vọng bên những mái nhà thấp thoáng khói lam chiều. Cuộc sống tuy chật vật, nhưng lòng người nơi ấy rộng như biển cả, ấm như nắng sớm.
Xem thêm
Trôi trên sông trăng – Truyện ngắn Vừ Thị Mai Hương
Mưa sầm sập. Mưa ào ào. Ánh trăng loang loáng trong làn mưa, vỡ tan trong ánh chớp. Trong màn đêm tối đen mịt mùng, xung quanh chỉ vọng lại tiếng nước đổ ào ào từ trên núi xuống. Tiếng bước chân chạy uỳnh uỵch trong đêm.
Xem thêm
Phán chấu. Truyện ngắn của Nông Quốc Lập
Tiếng gọi cầu cứu của thằng Bun như xé toang khoảng không gian ra thành nhiều mảnh. “Cứu cái gì, cứu ai, cháy nhà à, giết người à, rắn cắn à…?” Tiếng những người làng hỏi nhau, những cặp mắt tròn xoe, ngơ ngác. Dù không biết chuyện gì xảy ra với nhà Bun, nhưng khi nghe tiếng gọi cứu thì ai cũng ra khỏi nhà hướng về nơi có tiếng gọi.
Xem thêm
Bông bí vàng trên giàn mướp hương - Truyện ngắn Phan Thành Đạt
Hưng rón rén bước lên thềm, gõ cửa. Không ai đáp. Chỉ có tiếng chim trên giàn, tiếng cá quẫy nhẹ dưới ao. Giữa khung cảnh ấy, hình ảnh một cậu trai thành phố đứng giữa sân quê bỗng trở nên bé nhỏ, lạc lõng – nhưng cũng là khởi đầu cho một mùa hè không giống bất cứ mùa hè nào trước đó.
Xem thêm
Người đàn bà vẽ tranh kiếng – Truyện ngắn Lưu Kiều Nhi
Tôi về đến nhà đúng lúc ba và chị Hai đang hì hục đem mớ tranh kiếng của má ra cất ở nhà kho phía sau. Tôi biết ngay là má có việc đi đâu đó nên hai người họ mới cả gan đến thế. Chị Hai nói má không chịu ở nhà nghỉ dưỡng bệnh, lại lén đi lặt cuống ớt với mấy người đàn bà trong xóm. Ba cười hiền lành bảo: Kệ bả. Bắt bả ở nhà hơn bắt cóc bỏ dĩa. Lại phụ ba một tay, dọn cho xong đống nợ này đi bây!
Xem thêm
Án ma ni thiên ý - Truyện ngắn Ny An
Ở gần cuối xã Xay Xát, đi qua khỏi con dốc sỏi đá bụi bay xám mặt sẽ tới Quán Phật. Hai lùm thiết mộc lan um tùm đứng trước ngõ hút tài lộc, nở bông ngào ngạt mỗi tối. Quán Phật nằm giữa khu vườn thuốc nam, lắp camera từ ngõ vào tới cửa và phòng khách. Bờ tường gắn lưới thép B40 ngăn khu vườn với dải cát trắng trải dài đầy dứa dại, cây bụi và xương rồng gai nhọn tua tủa.
Xem thêm