TIN TỨC

Hồn nhiên như tuổi thơ còn sót lại

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-09-22 10:08:54
mail facebook google pos stwis
1946 lượt xem

Nhà văn NGUYỄN TRƯỜNG: Nhà văn Nguyễn Khải từng viết "Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách... chả rõ mình đang đọc gì...". Tôi sợ mình cũng đến lúc như thế, mà tuổi 70 đã cận kề, phải tranh thủ viết thôi. Bởi vậy tôi ít đàn đúm, sợ mất thời gian. Tôi viết về sự nghiệp nhà văn nào là bởi họ đã già, bị bệnh hiểm nghèo, để động viên họ như nhà văn Nguyễn Vũ Tiềm, Triệu Xuân, Nguyễn Khoa Đăng, Trúc Phương. Còn viết về tác phẩm nào là do mình thích, ngoài vòng bè phái và "ân oán giang hồ". Nay tôi viết về Tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo (báo Văn nghệ số 39) là vì văn học, mong được bạn đọc thể tất.

HỒN NHIÊN NHƯ TUỔI THƠ CÒN SÓT LẠI
(Đọc Tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo- nxb Hội Nhà văn 2022)

NGUYỄN TRƯỜNG

Tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo, dày gần 500 trang, khổ 16 x24 cm, bìa cứng, vừa ra mắt độc giả tháng 8 năm 2022 gây xôn xao dư luận, 1000 cuốn đã bán hết trong vòng 1 tháng. Đó là hiện tượng lạ, vì những năm gần đây các tác giả in thơ chỉ để biếu tặng.

Tại sao Tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo lại gây được sự chú ý của dư luận, được sự đón tiếp nồng nhiệt của độc giả? Có lẽ đã mấy chục năm nay thơ Trần Mạnh Hảo không xuất hiện trên báo chí cũng như xuất bản. Trong trí nhớ của nhiều người, thơ Trần Mạnh Hảo như là thứ rượu thơm ngon, từ lâu chưa được nhấp lai, càng làm người ta mong nhớ. Thì nay, tuyển tập thơ hơn nửa thế kỷ- kể từ ngày anh in bài thơ đầu tiên trên báo Tiền phong năm 1962, quả là có sức nặng chữ nghĩa. Nhưng trên hết tập thơ gần 600 bài, từ thơ tứ tuyệt đến trường ca, như Mỹ tửu cất lâu ngày, say lúc nào không biết.

Trong tuyển tập thơ, ta dễ nhận ra thi pháp thơ Trần Mạnh Hảo, trước hết đó là thơ có tứ hay. Trong bài thơ, tứ thơ triển khai theo chiều dọc, còn thơ viết theo cảm xúc thường thể hiện qua chiều ngang. Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm đúc kết kinh nghiệm làm thơ: “Túi nhà thơ có ba ngăn/ Tứ- Từ- Tư đủ quanh năm tiêu xài” (Tứ là tứ thơ. Từ là từ ngữ. Tư là tư tưởng). Trong tuyển tập thơ ta gặp phần lớn bài thơ có tứ hay như: “Mặt trời và hạt sương”: “Mặt trời không mang nổi/ dù một hạt sương rơi/ Nhưng trong hạt sương ấy/ Có bao nhiêu mặt trời”. Bài “Bác gấu trả lời”: “Bác xơi toàn mật ong/ Mà sinh mật đắng thật/ Lấy cái ngọt tận cùng/ Làm nên cái đắng nhất”. Bài “Giữa nước Nga tìm một con kiến” cũng có tứ thơ độc đáo: Nhà thơ đến nước Nga, chợt phát hiện trong vali có chú kiến: “Một chú kiến Việt Nam bé nhỏ/ Đã leo qua sáu quốc gia mười bảy nghìn cây số/ Không biết chú đã biết mình bò tận tới Liên Xô”. Để tác giả có cớ mà triết lý: “Tổ quốc có bao giờ người hóa thân thành kiến/ Lặng lẽ bò qua sự vĩ đại của mình/ Như những đứa con vượt Trường Sơn ra thế giới/ Không còn thích đóng vai người hùng cứu chuộc hành tinh”.

Nhà thơ trước hết phải xúc động viết nên bài thơ thì mới mong làm rung động được trái tim độc giả. Còn nhiều yếu tố làm rung động độc giả như tài năng, tài sử dụng ngôn từ, thơ phải có hình ảnh, thi tại ngôn ngoại... Thơ cần đa nghĩa, nhưng phải để cho độc giả hiểu. Thơ tù mù, rối rắm không hiểu thì làm sao người ta cảm được. Anh phản đối thơ chỉ cần cảm không cần hiểu. Không có nhận thức, không có con người. Hiểu, chính là nhận thức của con người.

Yếu tố phi lý và hợp lý trong tương quan với hình thức và nội dung thơ được ông sử dụng khá nhuần nhuyễn: “Ngọn lửa rét run trên củi ướt/ Cháy lem nhem dáng dấp con người”. (Tổ quốc của tình yêu) “Sông già nhất sông từng nhiều tuổi nhất/ Mà sóng đùa như trẻ mới lon ton” (Những dòng sông Nam bộ); “Khái niệm tự do làm ta khổ/ Hạnh phúc giam cầm nỗi khổ đau” (Tự do).

Nhưng tập trung nhất trong thi pháp thơ Trần Mạnh Hảo là nghệ thuật ẩn dụ. Hầu hết trong tuyển tập thơ là dùng hình tượng ẩn dụ. Những bài thơ Trần Mạnh Hảo viết về quê hương, đất nước đều hay, đều tràn đầy cảm xúc, bởi anh yêu đất nước này, không dưng gì tác giả lấy hai câu thơ trong bài “Nhân xem phim sám hối nghĩ về Boris Pasternak” làm đề từ: “Ôi đất nước/ Anh yêu đến băng hoại cả đời”. Đất nước của anh không thể hiện trực diện, nói tuột ra mà qua hình tượng văn học, qua ẩn dụ, nên thêm tầng ý nghĩa. Bởi thế, những bài thơ hay nhất của Trần Mạnh Hảo là viết về các dòng sông dọc dài đất nước như: Sông Hồng, sông Mã, sông Lam, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Cửu Long... Con người ở dọc theo dòng sông từ ngàn xưa đã anh dũng chống ngoại xâm, cần cù lao động làm nên non nước hôm nay: “Con mới hiểu biển vì sao khát nước/ Triệu năm còn ừng ực uống dòng sông/ Vì sao Lạc Long Quân lấy sông Hồng làm đuốc/ Soi nước Văn Lang từng bước tiên rồng” (Sông Hồng). Viết về Thanh Hóa, nhà thơ cảm hứng từ trong lịch sử, các anh hùng dân tộc đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên chống giặc ngoại xâm và mở mang bờ cõi như Bà Triệu, Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền, Lê Lợi, Nguyễn Hoàng... Nhà thơ khái quát hoá hình tượng đó bằng những dòng sông: “Một bên sông Trâu, một bên sông Ngựa/ Kéo tỉnh Thanh vào Thuận Hóa mở sơn hà”; “Sông linh hiển đất ngựa lồng, trâu húc/ Tổ quốc còn Thanh Hóa sợ gì đâu?” (Thanh Hóa). Trong tuyển tập, theo tôi bài thơ hay nhất là bài “Sông Lam”. Tác giả lấy con sông để nói về người dân xứ Nghệ nổi tiếng cần kiệm, bởi vùng đất đó vốn “khắc nghiệt về điều kiện tự nhiên, cằn cỗi về điều kiện thổ nhưỡng” nên con người càng phải chống chọi lại những gian khó đó để sinh tồn, do đó cũng tạo ra tính cách người xứ Nghệ: “Sông vắt kiệt lòng mình nuôi đất cát/ Thương đất nghèo sông xanh rớt mồng tơi/ Sông ẩn hồn trong vại cà, vại nhút/ Một củ khoai cũng lấp ló mây trời/ Con cò mặc áo tơi đi học/ Cá sông Lam còi cọc toát mồ hôi/ Gió hào kiệt thổi xơ Nghệ Tĩnh/ Cá gỗ nuôi lớn những thiên tài”. Những con người xứ Nghệ ham học, nên dân xứ Nghệ tài giỏi ở đủ mọi lĩnh vực, con đường học cũng là con đường để họ thoát cảnh bần hàn: “Đến cỏ dại cũng mọc thành chữ nghĩa/ Đồ nghệ sông Lam dạy biển cả học bài”. Người xứ Nghệ rất anh dũng trong chiến tranh bảo về Tổ quốc: “Để rú Quyết lặng thầm đi cứu nước/ Sông veo veo trời đất thoắt sen vàng/ Sông Lam ăn cát mà xanh, uống trời mà mát/ Trăng cháy hết lòng sâu quyết liệt cả cơ hàn”. Thật hào sảng, thật sâu sắc!

Một dải đất miền Trung làm nên “Đất nước hình tia chớp”. Mảnh đất “Mang hình dáng em”. Anh khái quát về miền Trung: “Những dòng sông nhất định về ngang/ Để lịch sử chảy về chiều dọc”. Miền Trung có sông Mã, sông Chu, sông Lam, sông Nhật Lệ, sông Gianh, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Côn, sông Đà Rằng... rất nên thơ lại hàm nghĩa văn hóa ngàn năm của dân tộc: “Những dòng sông miền Trung/ Như những thắt lưng đất nước/ Thắt lưng đất nước cho chặt/ Mà đi xuống biển/ Mà đi lên rừng”.

“Những dòng sông Nam bộ” lại là những ẩn dụ khác về người dân dọc con sông Cửu Long “Nông dân Nam bộ gối đất nằm sương/ Mồ hôi vã bãi lầy thành đồng lúa” (Cửu Long giang ta ơi- Nguyên Hồng). Trần Mạnh Hảo cũng cảm xúc về con sông Cửu Long này: “Những dòng sông làm nên làng nên xóm”. Những dòng sông chở nặng phù sa bồi đắp nên đồng bằng rộng lớn, vựa lúa của cả nước được tác giả ví như người khỏe mạnh: “Những dòng sông như những người chạy bộ/ Cứ đuổi theo bóng dáng chân trời/ Sông khỏe quá chạy hoài thành châu thổ/ Chạy qua rồi sông để lại lúa khoai”. Dòng sông cũng như tính cách con người Nam bộ, phóng khoáng, thích tự do, không muốn làm phiền người khác “Những dòng sông mang buồn vui sướng khổ/ Một đời sông không phiền lụy đê điều”. Tác giả trải hết lòng mình với dòng sông êm đềm này đến trọn đời: “Anh mới sống được một phần thương nhớ/ Bởi dòng sông cứ đến chảy qua nhà”.

Tây Bắc có hoa ban được ẩn dụ như người con gái Thái, như hình tượng Tây Bắc hùng vĩ: “Anh từng ước cùng hoa ban tắm suối/ Trời hở hang mây trắng khỏa lưng trần”. Nhà thơ ước thôi, để có lý do tưởng tượng trời đất, thiên nhiên cũng giao tình, lôi cuốn: “Hôn nước suối nõn nà hương con gái/ Cả núi rừng xao động ngoái thèm hoa/ Xin ôm xiết trọn linh hồn xứ Thái/ Inh lả ơi lồng lộng một đôi tòa”. Lồng lộng như một tòa thiên nhiên Thúy Kiều của Nguyễn Du tắm, nhưng trong thơ Trần Mạnh Hảo không phải người con gái tắm mà thiên nhiên, sông suối, văn hóa xứ Thái tắm: “Em cỡi hết mây trời trăng nõn tuyết/ Hoa ban còn trinh tiết mãi ngàn năm/ Yêu dấu hỡi xin suối nguồn tâm huyết/ Giữ dùm anh trăng khuyết nở nang rằm”. (Hoa ban em ơi). Quả là nhà thơ say mê Tây Bắc đến mụ mị, đến “băng hoại cả đời”.

Một bài thơ hay ít nhất phải có từ đôi ba câu thơ hay. Chính những câu thơ hay làm sáng cả bài thơ. Thậm chí trong câu thơ hay lại có một hai từ cực hay. Bài thơ “Cửu Long Giang ta ơi” của Nguyên Hồng thỉnh thoảng có vài câu thơ hay, trong nhưng câu thơ đó có vài từ “đinh”: “Ngẫm nghĩ voi đi/ Thác Khôn cười trắng xóa”; “Suối mát dội trong rừng dừa trĩu quả”. Trong tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo, bài Sông Lam và bài “Hoa ban em ơi”, dày đặc nhưng câu thơ hay: “Khoai lang gàn, luống dọc thích bò ngang”; “Người giàu có nên đất nghèo khô khát/ Kìa gió Lào thổi cong sông Lam” (Sông Lam). Có thể lẩy ra trong tập trùng trùng điệp điệp câu thơ hay: “Những vạt lục bình hoa vừa đi vừa nở/ Để đôi bờ sót lại những bài ca” (Những dòng sông Nam bộ); “Hồn ta làm cá cho trăng lưới/ Nghìn năm ta chết đuối giữa trời” (Lý Bạch, thơ hay có thể bị vua bắt); “Hoa ban nở thành người con gái Thái/ Đám mây bay trong thau nước gội đầu”; “Nơi con thác giữ nụ cười em lại/ Tiếng Thái thương như cầm được giữa tay mình” (Gửi Lai Châu); “Cái duyên là cái vô tình/ Ai mà cố ý không thành được duyên”; “Bánh dầy trắng bánh chưng xanh/ Đất trời kia cũng sinh thành bởi ta” (Đất nước hình tia chớp); “Sông Hồng lụt cả ca dao/ Con cò bị bão giạt vào lời ru” (Sông Hồng)...

Trần Mạnh Hảo nói nhiều về lịch sử, về các nhân vật lịch sử, các văn nghệ sỹ trong và ngoài nước... cũng chỉ mượn hình tượng người xưa để nói nay, để triết lý về vấn đề nào đó tùy thuộc vào thi hứng. Anh từng định nghĩa về thơ: “Thơ chính là tuổi thơ của loài người còn sót lại”, bởi thế thơ phải hồn nhiên, không cố ý, như là cái duyên của người con gái. “Cái duyên là cái vô tình”. Thơ không phải là triết học, thơ chỉ phảng phất màu sắc, hương vị cuả triết học, của tâm linh. Nó vừa hư vừa thực. Trong những câu thơ hay nó nửa hư nửa thực của anh: “Nắng trộn vào mưa, mưa trộn nắng/ Trời đất mà như tóc muối tiêu/ Ngày trộn vào đêm / Năm trộn tháng/ Anh trộn vào em hết mọi điều”. Thơ anh có nhiều câu khái quát một cách không khái quát. Những bài thơ tứ tuyệt của anh thường dồn nén, có tính khái quát rất cao, đặc biệt là ở câu kết: “Tỉa mấy cành khô toan chụm lửa/ Vài hôm chồi rỉ giọt đào hoa/ Mùa xuân đâu phụ lòng cây củi/ Cành đứt lìa thân nụ mới òa” (Củi và hoa).

Trần Mạnh Hảo vẫn trung thành với thơ truyền thống. Trong tuyển tập thơ ta gặp nhiều bài thơ lục bát, thơ tứ tuyệt, nhưng anh cũng có cả thơ không vần. Thật ra thơ không vần không mới. Từ Văn Cao, Thanh Tâm Tuyền, Trần Mai Ninh... thời chống Pháp đã làm thơ không vần. Trần Mạnh Hảo tâm sự, anh chịu ảnh hưởng của thơ Chế Lan Viên ở thơ tứ tuyệt. Không có Chế Lan Viên không có Trần Mạnh Hảo. Nhưng với Trần Mai Ninh lại là thần tượng thơ không vần của Trần Mạnh Hảo, mặc dù Trần Mai Ninh chỉ có ba bài thơ không vần, nhưng đó là ba bài tuyệt tác. Ta gặp các bài thơ không vần của Trần Mạnh Hảo trong tuyển tập như: “Thanh Tùng- người ăn hải cảng”; “Nghe nàng Vọng Phu Solveig hát”; “Bài ca vỏ ốc”... Trần Mạnh Hảo có đến chục bài thơ không vần.

Trung thành với thơ truyền thống, với tiêu chí thơ để hiểu, Trần Mạnh Hảo đã để lại cho đời một tuyển tập thơ nhiều tìm tòi đổi mới về thi pháp, có tính khái quát mang hương sắc triết học mà vẫn hồn nhiên như tuổi thơ còn sót lại.

N.T.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm