TIN TỨC

Lập trình thi pháp mới | Nguyễn Vũ Tiềm

Người đăng : vanchuong
Ngày đăng: 2021-11-01 17:56:40
mail facebook google pos stwis
2101 lượt xem

(Đọc tập thơ “Lập trình tia nắng mai”- NXB Hội Nhà Văn 2021 của Trần Thanh Bình)

NGUYỄN VŨ TIỀM

Đã lâu mới gặp lại, bạn thơ Hà Nội hỏi tôi: “Mình có cô học trò là Trần Thanh Bình ở Sài Gòn, học viên lớp bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du khóa 12 lâu nay vắng tin không thấy viết gì, ông có biết cô ấy không”? Tôi nói “Không biết”. Một tháng sau, tôi nhận được tập thơ có tên là “Lập trình tia nắng mai”, do bạn thơ nói trên giới thiệu. Thì ra cái sự “vắng tin” trên đây là có lý do: Sau khi học lớp bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn VN, tác giả Trần Thanh Bình có sự chuyển đổi bút pháp. Mới nghe cái tên tập thơ đã linh cảm điều đó.

Tìm cho mình một lối đi khác

Mấy tập thơ trước, Trần Thanh Bình viết theo bút pháp truyền thống, có tập 100% thơ lục bát. Đến tập “Lập trình tia nắng mai”, tác giả chuyển đổi sang thơ đổi mới: Hầu hết là thơ tự do, rất phóng khoáng mới mẻ. Lục bát cũng có mặt ở tập này nhưng chỉ khoảng trên mười bài, những bài này cũng mới mẻ khác trước nhiều lắm.

Thơ lục bát có điều dễ và khó riêng. Nhiều khi cái “dễ” của thể loại lục bát đánh lừa ta, đó là trường hợp khi chưa có ý tứ gì, nhưng sẵn có cái “khung sáu tám” quen thuộc, người viết cứ tựa vào khung đó, có sao nói vậy mà diễn ngôn đặt vô khung. Cuối cùng cũng thành bài lục bát đủ vần điệu, nhịp nhàng uyển chuyển, dễ đọc, dễ thuộc. Nếu có giọng tốt ngâm ngợi, có đàn sáo réo rắt kèm theo uyển chuyển du dương, người nghe cũng dễ bị lôi cuốn. Nghiêm túc mà nói, “có sao nói vậy” thì nó chỉ “giống như thơ” chứ chưa phải thơ mà chỉ là văn vần mà thôi. (Nhân tiện bàn sâu chút về học thuật thì nói cho hết nhẽ như thế, còn ai muốn gọi những bài văn vần đó là thơ thì cũng chẳng sao, chả ai cấm).

Thơ đích thực đòi hỏi khắt khe nhiều yếu tố như ý tưởng sâu sắc mới mẻ, cảm xúc chín, sự rung động mạnh mẽ, hình ảnh, ngôn từ sáng tạo, sự hàm súc cần thiết… Thơ đổi mới không có “cái khung” nào để tựa như lục bát, nên có cái khó riêng. Nếu không có những yếu tố như trên đây thì dễ bị “đổ” lắm. Trần Thanh Bình chuyển từ thể thơ truyền thống sang thơ đổi mới là quyết định đúng đắn hợp thời đại. Và, tất nhiên chấp nhận cái sự khó khăn vất vả đi kèm.

Từ năm 1986, đất nước ta đổi mới toàn diện, văn học cũng đổi mới mạnh mẽ, trong đó có thơ. Đổi mới thơ, quan trọng nhất là hệ thi pháp. Vấn đề này, tôi có viết bài trên báo Văn Nghệ (số 11- 2016) trong đó có câu tóm gọn như một định lý khoa học:  Hệ thi pháp cũ: Kể, tả, suy luận, kết thúc đóng (nghiêng về cổ vũ, động viên). Hệ thi pháp mới: Nghĩ, cảm, suy tưởng, kết thúc mở (nghiêng về chia sẻ nỗi niềm).

Tác giả Trần Thanh Bình có cố gắng chuyển đổi hệ thi pháp mới. Trong bài “Day dứt”: “Giọt sương gõ rỗng đêm/ gọi sao mai khép cửa/ Buồn như gối mền cứ mãi phẳng phiu”. Câu chữ cô đọng hàm súc. Đặc biệt câu cuối rất tâm trạng. Hình ảnh “gối mền phẳng phiu”. Đây là câu đặc sắc, hay nhất bài, viết được câu thơ này thật không dễ chút nào.

Em khám phá luống cày và dòng chữ/ mong tìm một lối đi” (Dòng chữ - Luống cày). Thì ra thời gian mà người bạn thơ của tôi bảo Trần Thanh Bình im lặng chính là tác giả đang “tìm một lối đi”. Trong lao động thơ, tìm cho mình “một lối đi” là rất cần thiết, việc này khó khăn bậc nhất. Có được lối đi riêng, thơ có giọng điệu riêng là công việc hàng đầu của nhà thơ.

Nhờ thơ tự do đổi mới khoáng đạt, Trần Thanh Bình viết được nhiều câu thơ khỏe khoắn, sâu sắc: “Thu nhan sắc bão giông/ Thu nghĩa tình hóa giải”. Trong bài “Khoảnh khắc giao mùa” có câu: “Chứng kiến lễ nghi giữa cuộc tình mùa thu và đông chí/ Tích lửa nồng tan biến giá băng”. Đoạn trích sau đây lại đặc sắc về ý tưởng thơ: “Xòe tay chị thấy mình nghèo/ gối đầu tiếc ngày dài chưa mở/ bật then đêm hứng lớp lớp sao rơi/ gõ cửa ngày mai trở về đầy ắp/ chị trở thành triệu phú những điều buông” (Buông)

Cái hay của đoạn thơ trên ở tương quan nghịch lý và tương phản: “chị thấy mình nghèo” nhưng có sự chuyển biến trong nhân sinh quan, nhân vật chị bỗng trở thành “triệu phú” bởi những điều “buông” . Ở đây thấp thoáng triết lý Phật giáo.

Thơ  bám sát thực tế xã hội và có tầm khái quát

Bấy lâu nay nhiều người chê thơ ta ít quan tâm đến thực tế xã hội. Điều này có cơ sở. Bao nhiêu chuyện đời, nhân tình thế thái, những chuyển động thời cuộc… ít được các nhà thơ quan tâm mà chỉ thấy thổ lộ tình cảm, cái tôi cá nhân được chăm chút quá nhiều. Đặc biệt là thơ tình mà phần lớn là tưởng tượng, tức… tình giả. Văn chương tối kỵ cái giả. Có phải vì thế mà công chúng ngày nay thờ ơ với thơ? Người in thơ nhiều hơn người mua thơ! Người làm thơ nhiều hơn người đọc thơ!

Đến tập thơ “Lập trình tia nắng mai”, tác giả đổi thay một cách quyết liệt. Gần gũi nhất, trong bài thơ viết về nỗi nhớ người mẹ vất vả nơi đồng quê: “Mỗi hạt lúa cõng từng con chữ/ con cua đâu phải bò ngang/ giương cặp mắt nằm im trong giỏ/ đổi cho con dòng chữ thẳng hàng”. Những câu thơ chắc nịch, “mỗi hạt lúa cõng từng con chữ” là hình ảnh rất đẹp. “Con cua bò ngang” tương quan với “dòng chữ thẳng hàng” lại là một sáng tạo nữa.

Lại nhớ câu thơ máu lửa của nhà thơ vùng châu Mỹ La tinh Octavio Paz “Đồng tiền liếm khô máu thế gian”. Xin thưa: thơ cách tân Việt Nam không hiếm câu ngang ngửa. Trong bài “239 bậc” của Trần Thanh Bình nói về những bậc đá ong lên ngôi chùa cổ kính tác giả kết hợp hình ảnh cổ xưa và cách tân, gây được cảm xúc suy tưởng phong phú sâu sắc: “Nhớ lối lên Chùa Tây Phương 239 bậc/ đá rêu mờ kết mây trắng dưới chân/ mang nặng tấm lưng còng/ mây gió đỡ mẹ lên từng bậc/ mẹ chống gối bước lên từng bước gánh gồng…/Đêm thật dài giấc mơ thì ngắn/ mẹ choàng sương giá làm khăn”.

Trong mùa bão lũ năm 2020, miền Trung của chúng ta chịu thiệt hại quá nhiều, cả nước cùng kiều bào hải ngoại và một số quốc gia trên thế giới đã góp tiền, của giúp đỡ bà con bị mất mát người và của. Trần Thanh Bình viết về sự chia sẻ thật cảm động: “Em học sinh nhịn quà sáng góp tiền/ suất hỗ trợ tuổi già tay run run trao gởi/ muôn trùng biển cả bỗng gần trong tấc gang”. Đặc biệt trong bài này, tác giả nhắc đến cái đẹp của mùa “nhan sắc” đồng thời nhắc nhở chúng ta cũng là mùa thu “bão giông”, tức là cái đẹp kèm theo sự tàn phá phũ phàng của thiên nhiên. Một phát hiện tưởng bình thường nhưng càng ngẫm nghĩ càng thấy sâu sắc.

Một mảng hiện thực khác, đó là vài mươi năm trở lại đây nhiều em gái mới trưởng thành hay chưa kịp trưởng thành từ quê ra phố kiếm công ăn việc làm, kiếm cơ hội đổi đời, may ít rủi nhiều và không ít bi kịch: “Hôm nay trăng cùng tôi ra phố/ trăng lạ lẫm trước chớp đèn xanh đỏ/ ánh trăng nào cũng nức nở phấn son/ tôi tủi hổ với trái xoài trái bưởi” (Trăng từ làng ra phố). Câu cuối “tôi tủi hổ với trái xoài trái bưởi” là một nét tâm trạng rất đáng chú ý, cũng là lời nhắc nhở khéo léo với các em.

Quê ngoại ở Thái Bình, tác giả có bài “Đất người Thái Bình”: “Người nông dân Thái Bình hiền như đất/ bao danh nhân không chịu đói nghèo/ Nguyễn Công Trứ uốn cong bãi biển/ lập ấp lập làng trù phú nuôi dân”. Ở bài này, tác giả khái quát, chấm phá về đất đai, con người, lịch sử Thái Bình gian truân và nổi tiếng về nhiều mặt, có nhiều danh nhân ghi dấu ấn vào sử sách. Bài thơ có dáng dấp sử thi. Một bài thơ viết về một đề tài như thế là khó. Nhưng ở đây, bài thơ khá phong phú về chất liệu thực tế … Sự nỗ lực của tác giả là rất đáng ghi nhận.

Liên tưởng xa hơn nữa, trong bài “Cha Trời – Mẹ Đất”: “Bầu trời phân lô/ mặt đất phân lô/ tầng ozon lỗ chỗ/ màu xanh nhạt dần mây đen vần vũ/ mắt người ngơ ngác hơi thở đóng băng/ dòng máu về tim tắc dần không lối thoát/ Bầy vi rút bất kham/ sức mạnh “văn minh” bất trị”. Trong bài này, tác giả dung hình ảnh cụ thể gần gũi, vi mô (“phân lô”) nhưng lại khái quát ở tầm vĩ mô (“bầu trời, mặt đất”). Đây là một sáng tạo táo bạo. Bài thơ này vừa được giải thưởng thơ hay trong Hội Thơ Nguyên Tiêu 2021 của Hội Nhà Văn TP.HCM.

Một số bài thơ khác cũng giàu chất hiện thực đời sống xã hội như “Men quê” , “Trăng từ làng ra phố”, “Bến lục bình” , “Lớp học online”… Chất hiện thực nóng hổi cộng với liên tưởng mạnh mẽ, khiến nhiều bài tạo được ấn tượng tốt trong lòng người đọc .

Trẻ trung và tinh tế

Trong tập “Lập trình tia nắng mai”, Trần Thanh Bình có nhiều bài thơ sâu nặng về nỗi niềm riêng tư, thơ tình cảm. Ở mảng này, tác giả cũng có nhiều bài gây ấn tượng tốt bởi hình ảnh, cấu chữ chọn lọc kỹ càng, tránh những câu trung tính, dễ dãi…

Một ngày bóc nõn giấc mơ/ bóc hoàng hôn để đón chờ bình minh/ đừng ai bóc cái chung tình/ bóc lời hẹn ước để mình không ta” (Chung tình). Hình ảnh “bóc nõn giấc mơ” là rất mới mẻ,đẹp, để rồi tác giả liên tưởng “bóc cái chung tình” là một bước tiến mới trong sự liên tưởng vừa cụ thể vừa trìu tượng. Người non tay khó có thể viết được những câu như thế.

Đoạn thơ sau đây lại tinh tế ở khía cạnh khác: “Em mong một áng sao mai/ đốt tầng hoang phế đốt chai sạn lòng/ nhú ra vạn vật xanh trong/ gió non nghiêng hết lúa đòng vào em” (Hơi thở bàn chân). Gió vốn khó nhìn thấy, vậy mà tác giả nhận ra được gió thổi trên cánh đồng lúa đang ngậm đòng là “gió non”, một hình ảnh tinh tế, tươi tắn, trẻ trung và đương nhiên là rất đẹp.

Thơ Thanh Bình luôn gắn bó với thực tế xã hội, nhưng cũng giàu chất suy tưởng. “Tiếp theo giọt sương rơi/ từng cánh hồng héo dần rồi rũ xuống/ khóc tiễn đưa bao cái đẹp hết mình” (Đóa hồng và giọt sương). Những cánh hồng sau thời gian thắm tươi rực rỡ nhất, đến lúc héo tàn thì ai cũng thấy, nhưng tác giả lại nhìn thấy cái khác nữa, đó là bao nhiêu cái đẹp trên thế gian này sau khi đã cống hiến hết mình thì đều ra đi, nhường chỗ cho những cái đẹp mới. Và những cánh hồng này rơi xuống như những giọt lệ khóc tiễn đưa. Một cái nhìn rất tinh tế và nhân văn.

Và tôi đặc biệt chú ý mấy câu thơ này: “Từ trong đáy mắt xa xôi/ bóng người ẩn hiện đang ngồi giữa trăng/ âm giai vũ trụ san bằng/ nguyên sơ bản thiện sáng vằng vặc soi” (Cảm hứng từ bức tranh “Người thổi sáo mù”). Tôi có biết bức tranh ấn tượng này, nhất là đôi mắt rất ám ảnh của người thổi sáo mù. Trần Thanh Bình có bài thơ về bức tranh với những câu thơ cũng rất ấn tượng và ám ảnh có pha chút bí ẩn. Mà đã bí ẩn thì… có lẽ miễn phân tích hay thẩm bình gì, chỉ biết đó là sự phong phú của một tâm hồn thơ.

Khó mà phân định rạch ròi thơ Trần Thanh Bình thuộc dòng hiện thực hay lãng mạn. Chính xác là cả hai yếu tố ấy được hòa quyện một cách nhuần nhị, tinh tế. Đó là một ưu điểm nổi bật trong tập thơ “Lập trình tia nắng mai”, dấu ấn rất rõ nét về sự chuyển đổi bút pháp, thi pháp.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm