TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Lời tự thoại chân thành khi “Đối diện chính mình” của nhà thơ Phạm Trung Tín

Lời tự thoại chân thành khi “Đối diện chính mình” của nhà thơ Phạm Trung Tín

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-05-03 07:37:53
mail facebook google pos stwis
2031 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA
(Nhân đọc tập Đối diện chính mình của Phạm Trung Tín, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2022)


“Chính mình đối diện mình thôi

Hẹp vòng quay, chậm gót rồi, hoàng hôn

Cộng trừ chi nữa dại khôn

Cõi nhân sinh rối phách hồn lạc xiêu”...

Tập thơ Đối diện chính mình

Đọc những câu trên trong khổ đầu tiên của bài thơ Đối diện chính mình mở đầu thi tập đã tạo cho tôi ấn tượng. Có lẽ, đó chính là những vần thơ được chiêm nghiệm, chắt lắng từ cuộc đời của một con người đã trải qua nhiều thăng trầm, dâu bể. Điều ấy, đã thôi thúc tôi đọc một mạch từ trang đầu tiên cho đến trang cuối cùng của tập thơ cùng tên Đối diện chính mình của Phạm Trung Tín. 75 bài thơ, đó chính là lời tự thuật của một con người đã đi qua những biến cố, vui - buồn của bản thân cũng như những thăng trầm, dâu bể của thời cuộc. Nhà thơ đã theo sát nhịp đập của cuộc sống để phản ánh thế giới tâm hồn rộng lớn của con người. Những buồn - vui, sướng - khổ, hạnh phúc - bất hạnh... trong thơ Phạm Trung Tín không chỉ là nỗi niềm riêng của riêng anh mà thấm đẫm tâm sự chung của con người thời đại. 

Đối diện chính mình thể hiện rõ độ chín muồi về cảm xúc và cả trong việc vận dụng các phương thức biểu đạt. Phạm Trung Tín lặng lẽ, lắng lòng mình theo từng nhịp đi của đời sống để khẳng định cái tôi của chính mình.

Đối diện chính mình của Phạm Trung Tín, cái tôi trữ tình hiện lên phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc nhưng hoàn toàn thống nhất. Đó là một cái tôi nhạy cảm trước những điều xảy ra trong cuộc sống mà anh đã trải qua, đã chứng kiến, quan sát, dự cảm...

Tay cầm ly chạm nhẹ tênh/ Giật mình đáy cốc lênh đênh phận người/ Xa xôi trăng cũng như cười/ Cùng ta tròn khuyết - chín mười tỉnh say.

Sắc sảo, nhạy bén trong cách nhìn nhận về cuộc sống, nhân tình thế thái nên thơ Phạm Trung Tín không chỉ hướng vào phân tích, lý giải, bình luận ở những khía cạnh nội tại mà còn đi sâu đến những góc khuất của tâm hồn để soi thấu, tìm về suối nguồn tâm linh, bản ngã để tương giao, củng cố niềm tin và sưởi ấm lòng người. Vẫn biết trần gian là cõi tạm/ Đời người bóng nắng hắt qua song/ Xót xa thương tiếc chùng tâm khảm/ Thôi chẳng lần sau tắm một dòng (Tiễn thi sĩ Đông Nguyên nơi an nghỉ vĩnh hằng).

Phạm Trung Tín đã từng trong quân ngũ, những năm tháng ấy đã trui rèn và tạo nên phong thái của một con người chững chạc, bình tĩnh, tự tin, ứng phó một cách linh hoạt trước mọi hoàn cảnh và có sống có nghĩa tình. Trở về sau cuộc chiến, nhà thơ phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thách thức. Cuộc sống áo cơm, gia đình, bạn bè, người thân... luôn làm cho anh đau đáu và đôi lúc bất an bởi quá nhiều điều không hay ập đến. Thương trường chìm nổi - hên xui/ Chính trường thủ đoạn dập vùi cạnh tranh (Khóc bạn cố tri).

Có lẽ ông trời đã luôn thử thách một con người hiền lành, chân thành, bộc trực như anh. Bởi anh luôn đối diện với bao nhiêu bất trắc. Nhưng tất cả những điều đó không thể làm anh gục ngã, anh đã vượt qua và sống hạnh phúc bên cạnh những người thân yêu mà anh luôn quý trọng. Bởi chính họ là động lực, là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần vững chắc để anh vui sống với đời. Phạm Trung Tín mãi tri ân người vợ hiền Nguyễn Thị Huệ bằng những lời thơ sâu lắng: Mười tám năm mấy vui buồn/ Xóa cơn hạn, chặn mưa tuôn đã từng/ Nắng cong bông lúa rưng rưng/ Mặn mòi gió biển nuôi rừng mãi xanh// Đã yêu thương giọt đầu cành/ Càng thương nắng ấm đã dành cho nhau/ Gánh gồng miên khúc lo âu/ Thiện tâm kết nối nhịp cầu yêu thương// Nuôi con, chăm mẹ - nhịn nhường/ Tiếng thơ chồng - ủ sắc hương đất trời/ Cánh buồm căng gió xa khơi/ Ngọn nguồn hạnh phúc mỗi lời sẻ chia (Ngọn nguồn hạnh phúc).

Đối diện với chính mình chính là lời tự thú, tự thoại trước bản thân, những suy ngẫm về nhân tình thế thái, về những buồn - vui, được - mất... trong hành trình đời mà nhà thơ đã, đang và sẽ đi qua. Lạc “tham, si” vướng víu “sân”/ Mình là ai bước phong trần trả vay?/ Dối lòng chi phút chia tay/ Thiên thu luống thẹn tháng ngày trần gian.

Người từng trải và chịu nhiều va đập của cuộc sống như Phạm Trung Tín đã tạo cho anh sức bền và khả năng chống đỡ, thích ứng với mọi hoàn cảnh. Cái tôi suy tư, chiêm nghiệm giàu tính triết lý được thể hiện rõ nét trong thơ Phạm Trung Tín. Với anh, giới văn chương chữ nghĩa, cũng lắm điều để nghĩ suy:

Cõi văn chương đắm ly kỳ/ Tài tương đố mệnh chính thi thố tà/ “Trăm năm trong cõi người ta/ Ai tri âm đó mặn mà với ai?” (Cõi mình).

Giữa dòng/ chướng nghiệp/ sơn khê/ Cõi văn chương những tỉnh mê khóc cười

Và nhà thơ đã đưa ra quan điểm của mình: Nhân sinh - thế sự/ bời bời/ Nghề văn nghiệp chữ/ cuộc chơi/ tâm - tầm (Nghề văn).

Phạm Trung Tín vốn là người nhạy cảm nên những điều bất thường xảy ra, bao giờ cũng làm cho anh xót xa, thương cảm. Bão lũ ở miền Trung, dịch bệnh Covid với bao cái chết thương tâm, những bạn bè, người thân lần lượt rời xa cõi tạm... Nhà thơ đều có những vần thơ “tứa máu” giãi bày nỗi đau của mình. Anh đã đem hết tình thương và tấm lòng bao dung để trang trải với đời.  

Đối với một con người tha thiết yêu cuộc sống này như Phạm Trung Tín thì nỗi buồn và sự cô đơn là điều đáng sợ. Nhà thơ hiểu rõ giá trị của hạnh phúc, vì thế anh luôn coi trọng, gìn giữ và nâng niu. Trong cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người, tình yêu thương trở nên quý giá, nhất là tình mẫu tử. Ngày đón mẹ từ quê nhà vào Nam dưỡng bệnh, được “cắt móng tay cho mẹ”, Phạm Trung Tín không khỏi nghẹn ngào, xa xót. Anh nhận ra bóng dáng âm thầm, khổ đau, già nua của mẹ...

Ngón gầy gân guốc nhăn nheo/ Đồng sâu ruộng cạn đói nghèo trả vay/ Trời thương con được cầm tay/ Để xoa dịu bớt đắng cay phận người.

Sau những trầy trật, mất mát, thiệt thòi nhà thơ lại tự nghiệm ra: Cõi mình giăng mắc người ta/ Bon chen cõi đất, lãng xa cõi trời/ Cõi dương đeo đẳng cuộc đời/ Cõi âm thăm thẳm rã rời nhân gian (Cõi mình).

Lời dặn con trai là một bài thơ đầy tâm huyết với những trải nghiệm của đời mình, cha đã ân cần căn dặn, chỉ bảo con bằng những lời gan ruột. Người cha mong muốn con mình hiểu và đừng bao giờ quên những lời cha dặn!

Con trai ơi/ Phố xá người đông, nếu chạy nhanh nguy hiểm/ Điều khiển xe phải chạy đúng làn đường/ Chân số tay ga đàng hoàng cầm lái/ Khi kẹt xe nhớ đừng lấn trái/ Muốn vượt lên đừng qua mặt bên phải/ Khi đèn đỏ hãy kiên nhẫn chờ dừng/ Văn hóa nhường đường... xin đừng tửng từng tưng// Lưu thông trên đường với luật lệ giao thông/ Mức phạt các hành vi... con cần phải biết...

Khi qua tuổi sáu lăm, Phạm Trung Tín lại tự nhìn lại chính mình bằng lời tự vấn, trăn trở rất đỗi chân thành:

Chớm già ư? Tuổi sáu lăm/ Nghe ngày thấm mỏi - đêm nằm thức lâu/ Nhẩm tay giở đếm nông sâu/ Góp bao trải nghiệm thành câu vô thường// Chừng nghe tóc ngả màu sương/ Bao niềm khuất khắp nẻo đường nhân gian/ Buồn thương trăng lạnh hoa tàn/ Đời thêm nợ có, lại càng trả vay (Qua tuổi sáu lăm).

Thế giới trong thơ Phạm Trung Tín đa dạng, độc đáo với những hình ảnh vừa thực vừa ảo, vừa gần gũi nhưng cũng vừa lung linh mộng ảo. Cái tôi gắn bó tha thiết với con người, gắn bó sâu nặng với quê hương xứ sở chính là mạch nguồn nuôi dưỡng nhà thơ. Ở đó, có bóng dáng của mẹ, của cha, của vợ con, bạn bè... Những vần thơ chan chứa nỗi niềm thương nhớ, sâu nặng nghĩa tình.

Đi qua những năm tháng đau thương của dân tộc, hơn hết Phạm Trung Tín cũng là một người lính nên anh càng hiểu rõ những mất mát đau thương.  Thay lời một người con liệt sĩ rước linh hồn mẹ về cõi vĩnh hằng được Phạm Trung Tín viết thay liệt sĩ Phạm Đức Hùng (1948 -1970), đọc lên nghe có gì đó nấc nghẹn, rưng rưng. Nỗi đau đến khôn cùng, khi nhà thơ dùng thủ pháp đồng hiện giữa hiện tại - quá khứ để nói đến tình mẫu tử thiêng liêng. Mất mát, đau thương, sinh ly, tử biệt... nhưng vẫn còn một cõi khác, thế giới khác... rồi tất cả cũng được đoàn viên.

Mẹ rời cõi tạm - quy tiên/ Khung trời xanh cuộc đoàn viên ấm nồng/ Mẹ gần con, vợ gặp chồng/ Tâm linh vô lượng cõi hồng tiêu diêu// Buổi con đi mẹ khóc nhiều/ Miền xa chiến địa - lệnh điều quân đi/ Đạn bom chôn tuổi xuân thì/ Bước chinh chiến - bước biệt ly - chẳng về// Thương cha tấc dạ tái tê/ Đông se lạnh mỗi chiều quê não lòng/ Đau tình mẹ nỗi hoài mong/ Tỉnh mê hiu quạnh giữa vòng đời vơi// Hồn con rước mẹ về trời/ Chín mươi chín tuổi chạm nơi ảo mờ/ Hiếu tang lễ phục bàn thờ/ Hương linh di ảnh bạc phơ mái đầu// Mẹ ơi qua những bể dâu/ Trần gian bời rối sắc màu nghĩa nhân/ Tuổi tên hình bóng... xa dần/ “Tiêu sinh tịnh độ” chuyển luân cõi người.

Không chỉ những mất mát đau thương của đồng chí, đồng đội trong những năm khói lửa mà ngay cả trong cuộc sống đời thường. Để rồi trái tim anh không biết bao nhiêu lần run lên bần bật vì những mất mát đó. Chính điều này mà trong Đối diện chính mình, nhà thơ có nhiều bài đề cập đến nỗi đau ly biệt: Khóc chị, Vợ góa cựu chiến binh, Tiễn hiền huynh, Tiễn thi sĩ Đông Nguyên nơi an nghỉ vĩnh hằng, Tiễn biệt một người thơ, Vĩnh biệt tri kỷ tri âm, Kính viếng hương hồn Đại huynh Nguyễn Cẩn, Thay lời một người con liệt sĩ rước linh hồn mẹ về cõi vĩnh hằng, Tiễn biệt lão đại nhân...

Khi viết về quê hương, đất nước, về bạn bè, đồng đội, người thân yêu ruột thịt, về cõi hư không hay cuộc sống đời thường thì những vần thơ của Phạm Trung Tín vẫn tràn ngập yêu thương, giàu tính nhân văn nhân ái. Ở đó là tình cảm, sự chia sẻ, an ủi, vỗ về với những giấc mơ, niềm khao khát để chiêm nghiệm về lẽ đời, tình người...

Phạm Trung Tín đã sống thật với lòng mình, vì thế anh đến với thơ cũng tận cùng chân thật. Đối diện với chính mình, Phạm Trung Tín biểu hiện rõ nét tình cảm chân thành, hồn hậu; thông qua những liên tưởng tinh tế, giàu sức gợi và mang đậm tính triết lý./.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm