TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ

Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-09-12 22:16:04
mail facebook google pos stwis
1382 lượt xem

Vũ Nho     

Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?

Nhà thơ Đoàn Phú Tứ

Trước hết, tuy Đoàn Phú Tứ chỉ được trích một bài thơ, nhưng trong phần tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã dành không ít dòng cho tác giả cùng với bài thơ. Ba lần nhắc đến Đoàn Phú Tứ và thơ của ông.

“ Tiếp  theo đó, Phong hóa luôn luôn đăng thơ mới của Tứ Ly, Thế Lữ, Nhất Linh, Nguyễn Văn Kiện, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ, Huy Thông” ( Thi nhân Việt Nam, nxb Văn Học, Hà Nội 1988, tr. 16).

 “Cái kín đáo của thơ Pháp gần đây tôi còn thấy ở Đoàn Phú Tứ” ( Sách đã dẫn, tr. 27).

“ Nói tóm lại, phong trào thơ mới đã vứt đi nhiều khuôn phép xưa, song cũng nhiều khuôn phép nhân đó sẽ thêm bền vững. Hẳn tương lai còn dành nhiều vinh quang cho những khuôn phép này. Nó đã qua được một cơn sóng gió dữ dội trong khi các khuôn phép mới xuất hiện đều bị tiêu trầm như thơ tự do, thơ mười chữ, thơ mười hai chữ hay đương sắp sửa tiêu trầm như những cách gieo vần phỏng theo thơ Pháp” (2)

Những dòng dưới đây là chú thích cho chỗ đánh số 2:

“ Tiếng ta có bằng trắc rõ ràng. Nhiều khi chỉ đổi thanh cũng đủ không cần vần. Đọc mấy câu này của Đoàn Phú Tứ :

Duyên trăm năm đứt đoạn

Tình một thuở còn hương

Hương thời gian thanh thanh

Màu thời gian tím ngát

Có ai ngờ là những câu không vần. Còn như  trong mấy câu này của Xuân Diệu:

          Đây, dây thơ e ấp đã lâu rồi

          Chìm trong cỏ một vườn hoa bỏ vắng

          (Lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng)

          Xin lòng người mở cửa ngó lòng tôi

Giá thay chữ “tôi” cuối câu thứ tư bằng một chữ gì khác không dấu đọc lên vẫn êm. Đại khái gieo vần phỏng theo thơ Pháp đều thừa như thế, mà lắm khi lại còn làm mất cả âm điệu bài thơ”. (Sách đã dẫn, tr. 41)

Thứ hai, chỉ có bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ là có nhiều chú đến như vậy. Toàn bài không tính nhan đề có 18 dòng thơ chia làm 5 khổ thì có 10 chú  giải chia cho  nhan đề 1, khổ thứ nhất 1; khổ thứ hai 2; khổ thứ ba 2; khổ thứ tư 3; khổ thứ năm 1. Mười chú giải này chiếm hơn một trang. Trong khi lời bình cũng chỉ dài non một trang mà thôi.

Thứ ba, duy nhất trong cuốn Thi nhân Việt Nam, tác giả dành lời bình cho một bài thơ cụ thể. Còn lại tất cả chỉ là những nhận xét cho câu thơ, hình ảnh thơ hoặc bài thơ, giọng điệu thơ. Phần nhiều những nhận xét đặc sắc, tinh tế của người có tài thẩm bình khái quát.

Cũng chỉ có bài “Màu thời gian” mới có hai thao tác cùng phối hợp là CHÚ trước và BÌNH sau. Phải chăng đây là gợi ý cho sau này trong nhà trường phổ thông miền Bắc những năm 60 có một kiểu lên lớp không phải là “giảng văn” mà chỉ là “bình chú”, một kiểu tìm hiểu tác phẩm thơ dành nhiều đất cho sự phóng khoáng của người dạy.

Thứ tư, tác giả của Thi nhân Việt Nam đặc biệt dành những lời khen ngợi trân trọng (hiếm khi gặp) cho  nhà thơ Đoàn Phú Tứ dù chỉ trích một bài. Trong những dòng nói về tác giả, hai nhà phê bình đánh giá: “Làm thơ rất ít. […] Nhưng thơ hay không cần nhiều. Đoàn Phú Tứ chỉ làm có dăm bảy bài mà hầu hết là những bài có đặc sắc. Ấy là một lối thơ rất tinh tế và rất kín đáo. Thi nhân ghi lại bằng những nét mong manh những cảm giác rất nhẹ nhàng”. (sách đã dẫn tr. 98). Phải thẳng thắn mà nói rằng lời bình của Hoài Thanh và Hoài Chân khá bình thường, không có gì nổi bật và đặc sắc. Chỉ có tình thần khen ngợi là nổi trội và rõ ràng (dù cũng đã gài vào cả ý không khen): “Thành ra ý thơ, lời thơ, điệu thơ cùng với hồn thi nhân đi từ hiện tại về quá khứ, từ quá khứ gần đến quá khứ xa, rồi dần dần trở về hiện tại. Hiện tại chỉ mờ mờ nhạt nhạt, nhưng càng đi xa về quá khứ, câu thơ càng thiết tha, càng rực rỡ. Nhất là từ chỗ ngũ ngôn chuyển sang thất ngôn câu thơ đẹp vô cùng. Tôi tưởng dầu không hiểu ý nghĩa bài thơ người ta cũng không thể không nhận thấy cái vẻ huy hoàng, trang trọng của câu thơ. Trong thơ ta có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế

( sách đã dẫn, tr.101).

Thứ năm, sau này khi Đoàn Phú Tứ chủ trương cùng nhóm Xuân Thu nhã tập, bài thơ lại được in lại, được phổ nhạc như một minh chứng cho mong muốn cách tân thơ.  Nhưng suy cho cùng cuộc canh tân thơ ca của nhóm cũng chỉ mới là đưa ra lí thuyết. Bài thơ có ý nghĩa như một minh họa cùng với những câu thơ của Nguyễn Xuân Sanh  sau này được nhắc đến như một sự kì cục, bí hiểm trong thể hiện “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà...” (*)

Gần đây, chúng tôi thấy một loạt các bài viết về bài thơ  “Màu thời gian” này. Tinh thần là đề cao, coi như là thành tựu của một mong muốn đổi mới thơ. Bài thơ xuất hiện cùng thơ mới, nhưng đã vượt qua thơ mới để đi  đến một lối thơ khác.[ Có thể đọc các bài viết của Trần Thị Quỳnh Thuận : Văn chương Đoàn Phú Tứ: một xác tín thẩm mỹ thời văn học mới; Chế Diễm Trâm : Tím ngát màu thời gian;  Nguyễn Thanh Tâm :"Màu thời gian" - "Bông sáng tạo dâng lên bàn thờ đạo" (Một diễn giải về thơ từ đặc trưng loại hình);…].

Dù có những bất thường như vậy, chúng tôi cho rằng bài thơ này cũng bình thường thôi. Nếu không chú, không bỏ công đề cao như Hoài Thanh đã làm thì vị tất người ta đã để ý và ca ngợi. Ngay cả Hoài Thanh, ông cũng phải thừa nhận: “Người xem thơ cũng biết rằng đây là hình ảnh một đôi mẩu đời, nhưng hình ảnh mờ quá không thể đoán  những mẩu đời kia ra thế nào. Có khi cả ý nghĩa bài thơ cũng không hiểu rõ” (Sách đã dẫn, tr. 98). Bài thơ có mấy câu không vần nhưng độc đáo, diễn tả thời gian, một thứ vô hình thành ra cụ thể, có màu, có hương. Trong khi đó, nhưng thi liệu và từ ngữ dùng lại quá cũ. Chẳng hạn :  xuân tìnhTần phi, Tóc mây một món chiếc dao vàng/ Ngàn trùng e lệ phụng quân vương/…Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng.

Tóm lại, dù có nhiều điểm  bất thường, nhưng  chúng ta nên trả lại sự bình thường cho bài thơ này. Không nên đề quá cao bài thơ “Màu thời gian”, dù cho nó được làm bởi một người sau này chủ trương cách tân thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập, dù cho nó được nhà phê bình hết sức ca ngợi và đánh gía bằng biệt nhãn. (* *)

         

Đôi điều nói thêm

Trong quá trình tìm hiểu bài thơ “Màu thời gian”, chúng tôi xem trong VOV5  một chương trình giới thiệu thơ Đoàn Phú Tứ và Trần Huyền Trân ( ngày 11/12/2012). Sau khi trích đọc lời nhận xét của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam, nghệ sĩ Thanh Thủy ngâm bài thơ “Màu thời gian” theo thể lục bát như sau:

          Cuộc đời có hững hờ đâu

          Trên đầu tôi đã điểm màu thời gian

           Thời gian xanh lại hoe vàng

          Thời gian xám đục ngỡ ngàng màu sương

          Mỗi lần tôi đứng trước gương

          Nhìn thời gian thấy bước đường đã qua

          Tại mình hay tại người ta

          Tự dưng tay nhổ gọi là tóc sâu

          Sợi  vương  sợi bạc sợi sầu

          Từ từ rơi xuống nỗi đau chia lìa

          Thời gian buồn tím tái tê

          Chỉ mình mình biết mình về mình thôi

Chúng tôi không chắc đây có phải là Màu thời gian  khác nữa của tác giả Đoàn Phú Tứ. Bài trong Thi nhân Việt Nam có vẻ khó hiểu, “mờ mờ nhân ảnh” nặng những thi liệu cổ thì bài này lại dễ dãi, diễn nôm.  Nếu quả đây là một bài khác của tác giả họ Đoàn thì cũng chẳng có gì  thật đặc sắc.(***)

 

Hà Nội 12/9/2014

V.N

 

* Đoạn thơ thường hay được trích của Nguyễn Xuân Sanh:

Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi

Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y

Rượu hát bầu vàng cung ướp hương

Ngón hường say tóc nhạc trầm mi

Lẵng xuân

Bờ giũ trái xuân sa

Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà...”

 

** Chúng tôi tuy không đề quá cao bài thơ xét về chất lượng, nhưng đánh giá cao việc cố gắng của tác giả tìm chất thơ trong “thời gian”. Đặc biệt là đã nói về màu và hương của thời gian.  Trước đó, trong văn học dân gian Việt Nam, thời gian chỉ là vấn đề dài - ngắn, nhanh- chậm (Đời người có một gang tay/ Ai hay ngủ ngày còn  lại nửa gang. Hoặc Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng mười chưa cười đã tối). Trong văn học trung đại, thời gian cũng được đo đếm theo tinh thần đó. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Thời gian như chớp mắt. Thời gian như giấc mộng kê vàng. Với Nguyễn Du và một số nhà thơ khác thì còn có thời gian tâm lí: Ba thu dọn lại một ngày dài ghêNgày vui ngắn chẳng tày gang. Hoặc Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại.  Hầu như chưa có ai đặt vấn đề màu và hương thời gian. Điều này chắc chắn có  thể sẽ mở đường hoặc  gợi ý để Văn Cao, Nguyễn Duy, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh,… viết  về “Thời gian” :

 

Rơi

           như tiếng sỏi

                                        trong lòng giếng cạn

            Riêng những câu thơ

                        còn xanh

            Riêng những bài hát

                       còn xanh

             Và đôi mắt em

                       như hai giếng nước.

 Thời gian – Văn Cao  

 

Gió ù ù đi qua họng súng thần công

Tiếng chuông chùa đi thủng thỉnh trong không

Áo em trắng đi từ xa vắng lại

Thời gian đi xám mặt đỉnh đồng

Đi ngang thành nội- Nguyễn Duy

 

Không phải chim ảo

Con chim thời gian

Để lại những dấu chân thật thà

Gương mặt đàn bà

Nhầu nhĩ

 

Chim thời gian

Như đại bàng cắp nàng trái đất

Vừa bay vừa dẫm nát mặt người

Rạn gương mặt Tây Thi

Nứt gương mặt Dương Quý Phi

Con chim

Ăn sắc đẹp đàn bà…

           Con chim thời gian – Nguyễn Thị Ánh Huỳnh

 

***  Nhà phê bình viết “Đoàn Phú Tứ chỉ làm có dăm bảy bài mà hầu hết là những bài có đặc sắc”. Chúng tôi xin dẫn ra hai bài của Đoàn Phú Tứ để mọi người xem đặc sắc  đến mức nào.

 

Ánh Trăng

Tác giả: Đoàn Phú Tứ

Mải miết đường đời đã bấy lâu,
Biếng nhìn trăng cũ muốn quên sầu;
Đêm nay bỗng thấy bên song ngõ
Một ánh xanh mờ thoáng tự đâu,
Leo lét gợi khêu tình quá vãng,
Lòng thơ bao xiết nỗi thương đau;
Vung chăn toan rũ màn đen tối,
Mắt lệ đờ trong vành ngọc cao.

 

Ti

Tác giả: Đoàn Phú Tứ

``Vật mình tức tối mộng không xong''

Nhắm mắt ôm vùi chiếc gối bông,
Bâng khuâng tìm giấc phấn hương nồng;
Phấn hương chưa ủ tình yêu lạnh,
Em chết ! Trời ơi ! Anh tủi lòng...

 

 Bài đọc trong Hội thảo về Đoàn Phú Tứ 2015.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm