TIN TỨC

Mỗi giọt máu như mặt trời

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-06-03 17:39:12
mail facebook google pos stwis
1933 lượt xem

 

Vũ Tuấn

Theo dòng ký ức, tôi nhớ lần đầu tiên đọc thơ của nhà thơ Võ Tấn Cường trên tập san Văn hóa Văn nghệ huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang năm 1988. Năm tôi bước vào học cấp ba, cũng là lúc tập tễnh làm thơ, mở tờ báo ra là tìm ngay trang thơ, thói quen này còn theo tôi đến giờ.


Nhà văn Võ Tấn Cường.

Bài thơ “Đêm đồng sen”, có hai câu kết dễ nhớ, vì nó đánh trúng tâm trạng tôi, năm đó tôi có một mối tình đầu vừa tan vỡ sau phút hào nhoáng ngây thơ của tuổi học trò, đã để lại tâm hồn mình dư âm buồn khôn xiết, một dư chấn yêu thương còn run rẩy như tờ giấy trắng lấm mực không cách gì bôi xóa…

Câu thơ như mối duyên nợ “chở khẳm” tình cảm của tôi và anh tới nay, chắc chắn còn “khẳm” thêm cho tình yêu thơ ca bao la về sau…

“Nếu vắng em đồng không trời trống
Xuồng anh chở khẳm nỗi niềm thương”

Đồng điệu về tâm trạng, câu thơ neo lại hồn tôi. Chính vì nó đã biến hóa tài tình thành chiếc xuồng ”tâm thức” chuyên chở nỗi nhớ niềm thương cho tất cả những ai đã yêu, đang yêu, sẽ yêu nên không bao giờ chìm khuất trong cái biển ngôn từ mênh mông ám ảnh. Lạ là chỉ một từ “khẳm” mà ấn tượng dai dẳng quá.

Và mấy chục năm sau chữ “khẳm” lại quay về trong thơ của Võ Tấn Cường, chuyên chở một cảm thức khác, không kém phần xa xót:

“Con tàu thời gian chở khẳm niềm đau
Miền giá lạnh đời em chờ anh ga cuối?”
(Thèm say)

Không chỉ chở nặng cảm xúc thơ, tâm hồn đa cảm của nhà thơ còn chở nặng bao nhiêu tình ý cuộc đời chất chứa trong hành trình sáng tạo, không bao giờ còn có thể kịp khai phá trên con tàu thời gian lao vùn vụt…

Thơ ca, hay chính xác là ngôn ngữ thơ ca có sức quyến rũ, cuốn hút kỳ lạ. Nó mê hoặc và làm thăng hoa cảm xúc người đọc, qua trái tim và ngòi bút như “cây gậy” quyền uy có khả năng “điều binh khiển tướng” của nhà thơ. Nó vượt thoát tầm kiểm soát, mang về cho nhà thơ những “thắng lợi” tinh thần ngoài mong đợi…

Qua nhà thơ Võ Tấn Cường tôi biết và làm quen nhiều nhà thơ đàn anh ở Mỹ Tho như: Lê Ái Siêm, Nguyễn Thạnh, La Quốc Tiến, Nguyễn Chi… Bây giờ, trong các anh có người đã gánh thơ thong dong về miền mây trắng… như La Quốc Tiến, Nguyễn Chi. Còn lại anh em làm thơ chúng tôi phải chịu “cuộc lưu đày xứ mộng” (“Nhà thơ và cuộc lưu đày xứ mộng”, tập tiểu luận phê bình của nhà thơ Võ Tấn Cường) không biết đến bao giờ?

Riêng nhà thơ Võ Tấn Cường là người luôn gần gũi, gắn bó, chia sẻ thân tình trao đổi nhiều về công việc sáng tác đối với tôi.

Tôi có đủ năm tập thơ của anh, từ tập đầu tay: “Cánh thời gian” đến tập thơ xuất bản gần đây là “Ru giọt máu” và hai tập tiểu luận phê bình anh tặng mỗi dịp xuất bản. Nếu chọn đọc để “khám phá cơ chế sáng tạo” như ý anh đã viết thì tôi chọn đọc cả hai mảng. Nếu chọn một để thưởng thức, tìm cái chất, cái vẻ đẹp nhân văn mang chiều sâu nội tâm thì tôi chọn thơ. Suy cho cùng, khám phá tâm hồn nhà thơ cũng không gì khác hơn là khám phá tác phẩm nhà thơ sáng tạo để dâng tặng cuộc đời…


Tập thơ “Ru giọt máu” của Võ Tấn Cường.

Có lần ghé thăm nhà văn Trang Thế Hy ở Bến Tre, ông nhắn nhủ đôi điều về công việc viết lách, tôi đã ghi vào sổ tay của tôi: ”Đừng ngại sự bắt chước, miễn là bắt chước có sáng tạo”. Đôi lúc, tôi cứ nghĩ theo cách của mình thật ra, công việc sáng tác với các nhà văn có thể nói là một sự bắt chước “vĩ đại”, nếu không bắt chước hiện thực cuộc đời, bắt chước cách nói, cách nghĩ của xã hội loài người, nhà văn có được bao nhiêu vốn sống để viết? Điều ₫ó nói lên rằng sức sống của ngôn ngữ thật kỳ lạ!

Ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ của thơ ca có lẽ giống triết lý “một trong tất cả, tất cả trong một” chăng? Ngôn ngữ là của chung nhưng ta lại có quyền xác lập một “bản quyền” bất khả xâm phạm khi sáng tạo nó theo cách riêng của mình? Nhà văn – anh “sáng tạo” đúng nghĩa được bao nhiêu phần trăm? Câu hỏi này luôn truy vấn tôi trong suốt quá trình làm thơ, để nhắc nhở mình “tỉnh táo” trước cơn say bốc đồng ngôn ngữ dễ ngộ nhận…

Một chữ “khẳm” khi đọc thơ của Võ Tấn Cường từ những ngày đầu biết yêu, tập tễnh làm thơ, rồi găm trong tiềm thức của mình, bất chợt một hôm nó bay vào câu thơ tôi đang viết:

“Mênh mang gió lộng sông Tiền
Ru say búp nõn giữa miền phù sa
Xuồng ai chở khẳm lời ca
Chòng chành giai điệu bay qua cánh đồng!”
(Giai điệu phù sa – Vũ Tuấn)

Nói vậy để thấy rằng sự cảm ứng đồng điệu trong ngôn ngữ thơ ca là có thật!

Với ý thức sáng tạo gần như thiên bẩm, nhà thơ Võ Tấn Cường không chấp nhận nép mình dù phải bay trên đôi ”Cánh thời gian”. Ngay từ tập thơ thứ hai: “Gọi xanh”, anh đã mở lối đi mạnh mẽ cho thơ bằng lối viết tự do, mới mẻ, hiện đại, mạnh dạn kiếm tìm thể nghiệm với cách viết không lặp lại. Nhất là tránh sa đà vào sự ru ngủ của vần điệu khuôn sáo giết chết thơ, đa phần các nhà thơ như vướng phải bẫy rập ngôn từ không cách nào thoát ra được trên hành trình sáng tạo của mình.

Nhưng phải công nhận một điều, ở chặng đầu này anh đã lập nên “kỳ tích” với bài thơ “Cha chơi cờ” từng đoạt giải nhì cuộc thi thơ Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong năm 1991.

Bài thơ viết theo thể ngũ ngôn truyền thống, khi đó được anh đọc nghe vài lần tôi đã thuộc. Đến giờ này anh đã in năm tập thơ, có nhiều bài thơ hay, tôi chưa thấy có bài thơ nào vượt qua và tỏa sáng hơn?! Tôi tin bài thơ này chính là điểm nhấn làm nên thương hiệu thơ Võ Tấn Cường. Bài thơ mượn hình ảnh cha chơi cờ để nói lên tâm trạng thời đại nhiều ẩn ý.

Nhà thơ, nhà phê bình văn học Hồ Thế Hà đã có bài bình và phân tích rất hay, sâu sắc, tôi chỉ xin chép lại từ trí nhớ của mình ngõ hầu thêm lần gởi đến bạn đọc sự trọn vẹn của một bài thơ hay:

“Cha nhặt tờ lịch cũ
Cánh thời gian rụng rơi
Cha vấn điếu thuốc cũ
Thời gian cháy ngậm ngùi
Cha chơi trận cờ tàn
Đóng hai phe chiến bại
Tướng sĩ thiếu đường chạy
Xe pháo liều chống càn
Tàn trận tướng sĩ lật
Nằm lăn lóc góc nhà
Con tốt trong tay cha
Hóa người hùng cô độc
Cha dọn lòng chôn cất
Bao héo hon tuổi già
Cờ không thể giải mã
Nỗi tủi hờn đời cha.”

Như tất cả các nhà thơ của chúng ta, nhà thơ Võ Tấn Cường cũng “chuyên chế” một loại “biệt dược” đó là thơ tình. Thơ tình của nhà thơ Võ Tấn Cường ba phần đắm say hai phần tỉnh táo. Anh đưa người đọc vào mê lộ tình yêu bằng ngôn ngữ của con tim thiêm thiếp đắm say nhưng luôn được đánh thức bằng cây gậy quyền năng lý trí:

“Mắt em trời thẳm linh thiêng
Tôi bơi vượt thoát bóng đêm hãi hùng
Mắt em hố thẳm không cùng
Tôi rơi vào khoảng lạnh lùng trống không”.
(Mắt em)

Cái nhìn của nhà thơ thật khác lạ. Nếu như với người mình yêu thì đôi mắt là cửa sổ tâm hồn cho ta thả vào đó con thuyền tình ái nồng nàn như nhà thơ Lưu Trọng Lư viết:

“Mắt em là một dòng sông
Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em”

Thì nhà thơ Võ Tấn Cường lại như người bơi lướt qua nhanh nhanh để vượt thoát sự cám dỗ ấy, rồi như người quá tỉnh táo anh dặn mình hãy cảnh giác với đôi mắt ấy!

Phải chăng thiên hướng nghệ thuật của nhà thơ phát lộ từ cái nhìn đó, nên khi viết về tình yêu anh vẫn còn “lạnh“ và lý trí hơn nữa:

“Em – giọt thủy ngân
Mang hình hài trái tim
Mang gương mặt diều hâu
Biến ảo
Phù phép
Vỡ nụ cười chan nước mắt”
(Chân dung thủy ngân)

Tâm thức nhà thơ là một loại mật ngữ vừa như đóng kín vừa như mở ra vô tận, ta vừa như nắm bắt trọn vẹn vừa như hụt hẫng, cảm giác mông lung đưa ta vào hành trình đồng sáng tạo với nhà thơ như không bao giờ kết thúc. Theo tôi, đó chính là sự thành công của nhà thơ. Bởi nếu ta truy vấn nhà thơ thì lúc ấy tác giả cũng chỉ còn biết cách trả lời ta bằng cách trỏ cho ta một lối đi khác nhiều mê hoặc hơn mà thôi…

“Ru người
Máu chảy về tim
Ru ngày êm ả
Ru đêm yên bình
Ru môi nồng thắm hồi sinh
Nụ hôn say đắm để dành mùa yêu
Ru người
Trọn giấc phiêu diêu
Lặng thinh giọt máu
Trăm điều bão giông…
Mơ hoang ru mặt trời hồng
Đẹp như giọt máu…bềnh bồng đáy tim”.
(Ru giọt máu)

Mơ hoang… Ôi! Cảm ơn phút mơ hoang phiêu hốt này, nhà thơ Võ Tấn Cường đã mang được ngọn lửa vũ trụ là mặt trời hồng vào trái tim mình. Thắp sáng con đường thơ, thắp sáng con đường tình, thắp lên trong ta niềm khát khao hy vọng…

Mỗi giọt máu là một mặt trời hồng. Tôi tin đây chính là thông điệp của nhà thơ Võ Tấn Cường gửi đến mọi người.Tôi tin đây là cánh cửa chính mở ra phía chân trời sáng tạo của thơ ca… “Ru giọt máu” là ẩn dụ nghệ thuật về niềm tin yêu cuộc đời, là bài ca lẽ sống cô đúc trong thể thơ lục bát ngắn gọn mà “trăm điều bão giông.” Bởi cuộc đời rộng lớn ngoài kia chỉ có hình tượng nghệ thuật đặc sắc mới có thể ôm chứa nổi, mới có thể cắt nghĩa được. Đấy là sức mạnh của ngôn từ, thăng hoa qua tâm thức sáng tạo của nhà thơ!

Tình yêu – thi ca – nghệ thuật của một nhà thơ chỉ có một bản chính. Bạn đọc khi tiếp cận có quyền nhân bản nó theo cách cảm, cách hiểu của mình. Không làm nó nhòe mờ mà còn làm phong phú thêm, thú vị thêm…

Tôi không rõ đường tình của nhà thơ Võ Tấn Cường nhưng đọc thơ anh, tôi tin anh trước “ải tình” – mà không mấy kẻ can đảm vượt qua – nhà thơ của chúng ta lại mỉm cười như nhìn rõ “chân tướng” đối phương?

Dù có thể đó không phải tâm trạng cá nhân anh, bởi khi sáng tạo nhà thơ đã hóa thân, tan chảy vào nhịp điệu sôi động của cuộc đời… Tôi vẫn cho đây là một góc nhìn đa diện về tình yêu, của một tâm hồn biết đặt con mắt tỉnh táo bên trái tim đa cảm. Không cần cảnh báo ai, chỉ cần cảnh giác với chính mình bằng con mắt quán sát tinh tế, chắc chắn trên đường đời, đường tình, đường thơ của nhà thơ Võ Tấn Cường ít va vấp và hy vọng anh sẽ về đích trong tâm thế bình yên vượt thoát.

V.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm