TIN TỨC

Một tinh thần Nghệ, một bản lĩnh Nghệ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-12-26 18:15:02
mail facebook google pos stwis
1227 lượt xem

ĐẶNG HUY GIANG 
(Đọc “Hốc Chọ” của Bùi Sỹ Hoa, NXB Hội Nhà văn tháng 10 năm 2023)

Trường ca “Hốc Chọ” hấp dẫn tôi ngay từ những câu đầu tiên. Tôi như bị lạc vào không khí vừa có phần thiêng liêng, vừa có phần mê dụ, lại có phần ám ảnh của mạch thơ mang vai trò và giá trị khai mở. Những gì bình thường chợt trở nên khác thường. Những gì khác thường chợt manh nha trong đêm bình thường. Đêm ấy cũng có thể coi là “đêm trở dạ” hoặc “đêm chuyển dạ” để mọi thứ được sinh hạ khi ngày mai đến, khi ngày mai mặt trời trở lại. Và cứ thế, đêm từng đêm tiếp nối...


Nhà thơ Bùi Sỹ Hoa và bìa Trường ca "Hốc chọ"

Hình như gió từ những câu thơ cũng khởi phát từ đó? Và gió là gì, nếu nó không được sinh ra từ những khoảng trống rồi chạy vào những khoảng trống, không ngừng không nghỉ? Nhìn chung, tạo được những khoảng trống trong thơ, gợi ra những khoảng ngẫm ngợi trong thơ, đặc biệt là thơ dài, không phải dễ và cũng là cái tài của người viết.

Đêm đầy sao

Tiếng vạc nhạt vào khuya lãng

Ông tôi ngồi xa xăm

Bóng xiên liếp nhà húng hắng

Chắt cạn ấm chè xanh

Hớp cuối cùng ực nghẹn

Thơm ngọt đầy tràn, đắng chát chưa trôi...

Trong cái “đêm nheo nhóc vá đụp, vá chằng” ấy, “đêm côn trùng nỉ non” ấy, ngày mai gian nan, ngày mai khốc liệt vẫn như nỗi lo thường trực trong ý nghĩ của con người: “Ngày mai trời trút nắng/ Nắng cháy nắng thiêu nắng hừng nắng rát/ Mặt đồng nứt nhăn vầng trán cha/ Nền trời hoang hoải đôi mắt mẹ/ Héo hon nụ cười em gió khô/ Rạc rụng bờ tre gai tháng bảy/ Te tua tàu chuối vàng tháng tám”. Trong cái đêm “trứng nước gió giông” ấy, trong cái đêm “chuyện trạng trào nước mắt” ấy, trong cái đêm “đau đẻ oa oa hạnh phúc” ấy, “giấc mơ gieo trồng dày nhánh sây bông”, “giấc mơ khai khẩn hốc chọ bòn mót” vẫn còn đó. Giấc mơ ấy luôn hối thúc, luôn giục giã, chưa bao giờ yên và cũng là động cơ sống, động lực sống.

“Hốc chọ” - theo giải thích của tác giả là “Vùng khai trang, lập trại nơi rừng sâu, núi thẳm; là vùng đất khó dưới/ giữa chân đồi núi theo từng con nước; được người dân nhiều nơi ở Nghệ An gọi là hốc/hóc, chọ, gọi chung là hốc chọ”. Đây cũng là lời dẫn, lời mở đầu, rồi sau “Và...” là phần chính của “Hốc chọ”.

Chúng ta từng biết một miền Trung qua thơ Phạm Ngọc Cảnh với “sông suối dày tơ nhện”, với “núi choài ra biển”, với “ngày này con trai ta buộc chân vào lèn sóng”; một Hoàng Trần Cương với “miền trung mỏng và sắc như cật nứa/chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam”, với “mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt”... giờ lại gặp một miền trung khác của Bùi Sỹ Hoa. Đó là một miền Trung, cụ thể là Nghệ An, đến đất để trồng cấy cũng phải “bòn mót”. Đó là một miền Trung dẫu “kiệt cùng hang hốc” mà vẫn giữ “đói rách sạch thơm”. Đó là một miền Trung, giống như một ngọn lửa “cháy cạn kiệt, lại thắp bừng đuốc sáng”. Trong cái đêm miền Trung ấy, trong cái đêm “Sao rơi rơi/ Đèn hoa bấc cạn” ấy, vẫn có một người ông “Thở dài nằng nặng/ Rồi vươn tay lấy nước - mát/ mềm/ Rồi vươn vai lấy đá - nóng/rắn”, cho dù “Mai cháy lựng đôi vai”, “Mai toẽ chân dốc đứng”, cho dù phải “Lấy lửa từ đá toé máu/ Nuôi giấc no từ rơm toóc bện khô giòn” thì vẫn phải mài ý chí thông qua việc “mài dao”, “mài đêm”. Mài dao cho sắc, đòi hỏi một sự kiên trì. Nhưng mài đêm, mài ý chí cho sắc, thì quả là một biểu hiện phi thường của sự kiên trì.

Trong cuộc mưu sinh thấm đẫm bao nhiêu kiếp đời không ngừng không nghỉ, ý chí sống, nỗ lực sống để vượt lên hoàn cảnh, không chỉ có ở con người. Hãy đọc những câu thơ dưới đây để thấy môi trường sống và vạn vật cũng vượt lên hoàn cảnh cùng con người, “chung lưng đấu cật” cùng con người, như cũng biết sẻ chia cùng con người:

Sông suối kiệt sức chảy

Lá cành kiệt sức xanh

Rễ siêng kiệt sức tìm

Mạch nước kiệt sức rỉ giọt

    hay:

Suối ngọt vừa tìm dòng trôi vừa róc rách mơ biển mặn

Hạt quả vừa rơi vừa mơ nảy mầm trên đất no lành

Đất cùng người hay người cùng đất, lúc nào cũng nhất mực như thế, ở nghĩa chung thuỷ, vất vả có nhau, no đói có nhau, sống chết có nhau, là một phát hiện trên mảnh đất - đời người từ trải nghiệm của Bùi Sỹ Hoa. Cũng như đời sông, đời người có bên bồi, bên lở, lúc thẳng, lúc quành, “dòng đục đến hồi lắng trong/ dòng trong lắm khi vẩn đục” thì “nước” vẫn “mực trôi xuôi”, thì  “lối mòn bữa nay chưa dứt” vẫn có “lối mòn bữa mai réo chờ”.

Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Ấy là câu tục ngữ nói về bàn tay liên quan đến lao động, đến miếng ăn, miếng ăn phụ thuộc vào lao động. Tay làm thì có cái để ăn (“hàm nhai”), tay không làm thì đói (“miệng trễ”). Nhưng đấy mới là cái biểu hiện một phần của bàn tay, còn cái biểu hiện toàn phần của bàn tay vừa rất đặc trưng, vừa rất linh hoạt, phải là:

Bàn tay khuấy vào trống không

Bàn tay thõng buông bất lực

Bàn tay ngửa khúm núm vay khất

Bàn ta khum đón nhận mùa vàng

Bàn tay vung lên quyết dành việc lớn

Bàn tay chai quen chặt to, kho mặn

Bàn tay búp măng chữ nghĩa cuốn như rồng

Tôi thích những câu thơ ấn tượng, vừa sống động, vừa rất đời, lại không dễ viết: “Tiếng vạc nhạt vào khuya lãng”, “Bóng xiên liếp nhà”, “Con dao sắc ngủ cùn trong vỏ tối”, “Cỏ dại mỗi sáng thắp treo ngàn vạn giọt sương/ Mầm hy vọng long lanh giữa lặng nín đất trời”, “Uống một mình ra ôi ra thiu/ San đi để có lần sẻ lại”, “Tháng Ba tái xanh chưa qua, tháng tám đã thở dài sườn sượt”, “Những mùa di cư gió ngang, gió dọc/ Mưa buốt mây tràn rớt tiếng tha hương”, “Bay lên thoát kiếp người không/ Bay là sống giữa mênh mông đất lành”... Thủ pháp nhấn nháy cũng được sử dụng rất có ý thức qua việc “quá tam ba bận” nhắc lại một khúc ca trong câu ví sông Lam cổ (nước xuôi). Lần thứ nhất là “Răng là đục là trong/ Răng là vinh, là nhục”. Lần thứ hai đảo lại là “Răng là vinh, là nhục/ Răng là trong, là đục”. Lần thứ ba là nguyên văn câu ví: “Ai biết nác sông Lam răng là trong là đục/ Thì mới biết sống cuộc đời răng là nhục, là vinh”. Ở đời, hiểu hết cái nghĩa lý đục-trong-vinh-nhục và sống hết lòng trong cái môi trường sống ấy, xem ra cũng chẳng dễ!

 “Hốc chọ” có hai trường đoạn viết thật hay, thật đáng nhớ. Đó là trường đoạn viết về cá gỗ với một câu mở đầu: “Tôi là cá gỗ” và trường đoạn viết về Chọ Hao và bà với một câu như là điểm nhấn: “Bà tôi không biết chữ”. Đó là “Tôi là cá gỗ/ Người làng tôi nuôi chí quan trường/ Đi ra bằng vai phải lứa/ Giữa trời ai kém chi ai”; “Tôi là cá gỗ/ Thầy tôi kinh thành lều chõng ứng thí/ Thầy tôi gánh ba bồ chữ/ Lận lưng đôi cắc gọi là/ Trong đầu toàn chuyện kinh bang tế thế/ Hai tay nghiên mực loem loè”; “Tôi là cá gỗ...? Một tôi trăm bữa không không có có/ Một tôi nuôi chí can trường”; “Tôi là cá gỗ/ Bơi trong bát sứa tương bần/ Bơi trong chén mắm loãng/ Lấp chìm sóng sánh thơm tho/ Ngày ngày trôi trôi tháng tháng/ Trầm mình ướt rồi lại khô”; “Tôi là cá gỗ/ Tôi gàn - không chịu hôi tanh/ Tôi gàn - không ăn muối mà không ươn”; “Tôi là cá gỗ/ Từ đẽo gọt bỏ đi mà có/ Từ thẹo thừa bỏ đi mà có”; “Tôi là cá gỗ/ Ra khỏi làng thành ông nọ bà kia/ Về giữa họ làm cháu chắt thưa dạ”; “Tôi là cá gỗ.../ Vượt nghèo và thoát khổ/ Vũng bùn và vũ môn”; “Từ bấy, tôi - cá gỗ../ Vứt nghèo hèn, quẳng ô nhục/ Chân trời cũ chưa qua, phía trước khựng chân trời”... Đó là “Nhà tôi Chọ Hao... Bà tôi mài mực đọc ngược Truyện Kiều/ Mẹ tôi làm dâu củi tươi gió tạt/ Cha tôi mỏi vai, vợi chén rượu lạt/ Tiếng cười khuây nguôi nắng sớm mưa chiều”; “Nhà tôi Chọ Hao.../ Tôi đi lạc bước u mê/ Bước đi trống trếnh, bước về trống trơn/ U ơ bước tủi bước hờn/ Giữa chang chang nắng ập cơn mưa rào/ Lòng quê mát tựa mạch trào/ Lòng tôi sóng sánh dây gầu kéo trăng”; “Bà tôi không biết chữ/ Nói năng ngay lối thẳng hàng/ Hệt như ca dao tục ngữ/ Kèo cột gieo mầm xa, cơm áo ủ giống gần”; “Bà tôi không biết chữ/ Buột mồm lục bát phân vân/ Đời nào mà chó sủa không/ Không anh ăn trộm cũng ông ăn mày”; “Bà tôi không biết chữ.../ Dạy cháu con học để biết, không chỉ dừng ở chữ/ Biết làm người... Nuôi ngày dài, ru đêm trường chân đất”...

Hai trường đoạn này, đặc biệt là trường đoạn “cá gỗ” đã chọn được một cách diễn đạt, cách hành xử đúng mực, vừa chân thành, vừa thành thực, không hẳn cương cũng không hẳn nhu, cương mà nhu, nhu mà cương, uyển chuyển và có sức thuyết phục cao.

Theo tôi, “Hốc chọ” là một trường ca có mảng, có miếng, có luồng có lạch, ngồn ngộn chi tiết thơ, đơn vị thơ xoắn xuýt với nhau, tạo nên nhiều hình tượng thơ, luôn neo bám vào đất quê và hồn quê trong một mạch diễn đạt, suy tưởng hanh thông. Về mặt lao động nghệ thuật, “Hốc chọ” được viết rất kỹ lưỡng, kỳ khu và bộn bề cảm xúc.

Và sau chót, “Hốc chọ” chính là bài ca của sự nhẫn, của sự không khuất phục, của sự cương cường, của ý chí, của cốt cách...làm nên tinh thần Nghệ và bản lĩnh Nghệ.

Nguồn: Tuần báo Văn nghệ số 52 (30/12/2023).

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm