TIN TỨC

Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-08-01 05:46:33
mail facebook google pos stwis
248 lượt xem

VŨ NHO

Còn nhớ năm 2010, nhà thơ Hữu Thỉnh công bố tập lý luận phê bình đầu tiên nhan đề “Lý do của hy vọng” chúng tôi đã viết bài khẳng định, do phải làm công tác Hội Nhà văn nên nhà thơ buộc phải viết lý luận phê bình. Bởi phải chủ trì các hội thảo, hội nghị, các lần trao đổi học thuật, các đợt triển khai nghị quyết của cấp trên.

Mười năm sau, tác giả lại cho ra đời cuốn tiểu luận phê bình thứ hai “Bến văn và những vòng sóng”. Tập này gồm 61 bài viết trong đó có một số là những tổng kết hội thảo, diễn văn, báo cáo tổng kết của người đứng đầu Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Các bài phê bình văn học viết về các nhà văn, nhà thơ lớn như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Thảo…

Nhà thơ Hữu Thỉnh tại lễ ra mắt sách “Ám ảnh chữ”.

Tập “Ám ảnh chữ” này được viết trong vòng 5 năm. Gồm 47 bài viết. Điều quan trọng và khác biệt nhất chính là nó được viết khi người viết đã được giải phóng khỏi mọi chức vụ. Lúc này đọc và viết chỉ còn là sự sung sướng và tự nguyện. Tác giả thổ lộ “dần dần lĩnh vực phê bình văn học làm tôi hứng thú không kém gì sáng tác”. Sẽ không có những tổng kết, báo cáo, diễn văn, đề dẫn. Bạn đọc sẽ thấy nội lực của Hữu Thỉnh khi trở lại với những tác giả mà anh đã viết trong tập trước với những khám phá mới.

Ví dụ như đánh giá về Chế Lan Viên, Hữu Thỉnh chỉ ra Chế Lan Viên có “vẻ đẹp âm tính” so với thơ mới mang “vẻ đẹp dương tính”. Đối với thơ Cách mạng thì Chế Lan Viên cũng góp 3 điều khác biệt đem lại sự hài hòa cho thơ Cách mạng. Đó là thăng hoa trí tuệ, đanh thép của chính luận và tráng ca, hùng ca. Chưa một nhà nghiên cứu nào đánh giá, so sánh như vậy. Hữu Thỉnh cũng tranh biện với những ý kiến khác để bảo vệ “Di cảo” của Chế Lan Viên “Di cảo là bản lĩnh, là nhân cách, là tâm huyết lao lung của một nhà thơ kì tài chứ không phải là sám hối, hoặc là phủ định như một số người cố tình gán ghép”.

Đánh giá về sáng tạo của Trần Dần trong trường ca “Đi! Đây Việt Bắc”. Hữu Thỉnh ví dụ 9 lần viết về lá, không lần nào giống lần nào, “Mỗi lần nhắc đến lá là mỗi lần thể hiện một cách nhìn, một tâm trạng khác nhau. Thế mới biết sáng tạo là câu chuyện của vô cùng”. Rồi người viết khẳng định: “Trần Dần đã đóng góp một giọng điệu riêng, một phong cách riêng, mang đến một giá trị bổ sung, làm phong phú thêm nền thơ ca chống Pháp trong tiến trình hiện đại hóa thơ Việt”.

Chúng ta đều biết Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ với nhiều thành tựu. Tác giả có những tập thơ, những tập trường ca được đánh giá rất cao. Đó là ngòi bút thơ ca tài hoa, sâu sắc. Với lợi thế đó, tác giả viết nhiều bài phê bình thơ của người cùng giới nổi bật trong tập này. Thống kê nhỏ cho chúng ta thấy có 4 bài tổng hợp, khái quát và phê bình chân dung ("Góp thêm cách nhìn về nửa thế kỉ văn học", "Truyện ngắn “lá cờ chuẩn” của Hữu Mai được dựng thành phim như thế nào", "Cảm nhận “Những bức chân dung văn hóa” của Hoàng Kim Đáng và Văn hóa trong quá trình xây dựng nước ta thành một nước phát triển"), Hữu Thỉnh chỉ có 9 bài viết phê bình văn xuôi so với 34 bài viết về thơ và trường ca. Như vậy đã rõ về việc dụng sở trường của mình của cây bút phê bình Hữu Thỉnh.

Viết về thơ bao gồm viết về tập thơ, về đời thơ, về trường ca của ai đó, tác giả đều đọc rất kĩ. Không ít lần chúng ta biết được công phu đọc của anh. “Tôi tự khuyến khích đọc thật chậm, đọc đi đọc lại rất kĩ từng bài để thấy hết những cố gắng của tác giả”. Hoặc “Tôi đã nhiều lần đọc tác phẩm này, lần nào cũng không cầm được nước mắt”.

Khi bình phẩm, bao giờ Hữu Thỉnh cũng chú ý đến sự tìm tòi, đổi mới về nội dung và bút pháp. Không ít lần, để thuyết phục bạn đọc, nhà thơ Hữu Thỉnh trở thành nhà bình thơ, bình bài thơ hay khổ thơ mà anh cho rằng độc đáo, sáng tạo.

Chẳng hạn, Hữu Thỉnh sau khi nhận định đã dẫn ra bài “Dựng nhà trên dãy Hoàng Liên” của Vũ Quần Phương, “một bài thơ toàn bích” và say sưa bình từ trang 184 đến 186. Ví dụ khác khi viết về Trần Nhương, tác giả vừa bình, vừa khen các bài thơ “Làng Sỏi”, “Vầng trăng trên đèo Ba Bông”, và “Vừa đủ”. Viết về nhà thơ Gia Dũng, Hữu Thỉnh bình kĩ hai bài thơ của tác giả là “Đò đêm” và “Chừng nào em về làng Đót?" rồi sung sướng kết luận “Tôi muốn nói lên sự sung sướng của nỗi bất ngờ và bất ngờ một cách sung sướng khi khám phá ra một Gia Dũng rất lạ, rất khác”.

Đọc các bài viết về thơ và trường ca, bạn đọc luôn thích thú được tác giả Hữu Thỉnh chỉ ra và chia sẻ những “câu thơ nhan sắc”. Tất nhiên không phải lúc nào tác giả cũng chọn đúng, cũng làm người đọc đồng tình, không chút phân vân. Nhưng đại đa số những câu thơ nhan sắc mà Hữu Thỉnh khen thì đúng là nhan sắc thật. Nhiều lắm các ví dụ, song chỉ dẫn ra một số câu tiêu biểu:

"Sau khi trải nỗi khổ to bằng thế giới/ Mẹ nhỏ lại/ Bằng đứa cháu kia thôi/ Một cô bé tóc bạc" (Trúc Thông).

"Chiếc ba lô bé nhỏ/ Treo vách nhà/ Đựng những ngày đẹp nhất đi xa" (Y Phương). "Hạt sương/ Ngủ trên chiếc lá/ Giật mình thức giấc/ Thấy mình màu xanh" (Trần Lê Khánh).

Không chỉ tinh tế về việc chọn những câu thơ nhan sắc, Hữu Thỉnh cũng rất giỏi việc khái quát nét riêng, độc đáo của mỗi nhà thơ mà anh động bút. Chỉ nêu hai ví dụ:

Đánh giá cống hiến của Bằng Việt:

“Sau hơn nửa thế kỉ cầm bút, Bằng Việt đã có những cống hiến xuất sắc về sáng tác, dịch thuật và khảo cứu. Anh là nhà thơ hàng đầu của thế hệ chống Mỹ. Thơ anh sớm có cách nhìn riêng, giọng điệu riêng, bút pháp riêng. Chất suy tưởng trong thơ anh phát triển theo sự vận động và thay đổi của đất nước”.

Đây là khái quát về Thi Hoàng, người luôn tìm tòi đã có “những câu thơ đẳng cấp và chắc sẽ có tuổi thọ cao”. “Đã rõ là Thi Hoàng đau đáu về đời, đau đáu về thơ. Nhưng anh vốn kị to tiếng, nên mạch thơ không bị lộ thiên, nó chìm nhuyễn vào sự sống. Và nhất là nó thành nhịp thở của hồn anh. Một người đang tự bạch, đang ngộ, đang chuyển cái năng lượng tâm hồn thành năng lượng chữ, người ấy phải nung nấu lắm chứ”.

Khác với Vũ Quần Phương độc canh ở mảng phê bình thơ, nhà thơ Hữu Thỉnh còn quan tâm đến văn xuôi, cụ thể là chín tập sách tiểu thuyết, ký sự. Ở đây, hơi tiêng tiếc là cái tinh tế, sắc sảo đã giảm đi mấy phần. Có lẽ người viết phê bình đã rời những sở trường của mình chăng?

Thành công hơn cả là bài viết về Nguyễn Trọng Tân, Nguyễn Bắc Sơn, Đỗ Hàn. Các bài viết về Phùng Văn Khai, Nguyễn Hữu Nhàn, Hoàng Quốc Hải, Trình Quang Phú, Hoàng Quảng Uyên thì thành công vừa vừa bởi một điều kị là tóm tắt, kể lại nội dung tác phẩm dài quá. Người đọc không thấy rõ nhà văn được nói đến. Nhất là với tác phẩm của Hoàng Quảng Uyên. Khi viết về tập “Trông vời cố quốc”, người đọc không thấy tác giả Hoàng Quảng Uyên đã đành, mà hình tượng Bác cũng không rõ.

Chỉ thấy nhà sử học không chuyên Hữu Thỉnh trình bày say sưa các sự kiện lịch sử xảy ra với Bác từ khi Người ra đi tìm đường cứu nước đến khi về Trung Quốc tham gia Hồng quân Trung Quốc mang quân hàm Thiếu tá với bí danh Hồng Quang. Trong cuốn sách vẫn còn nhiều lỗi chính tả do sơ suất đọc morát, và một số trích dẫn sai. Thật gay là bốn câu thơ ngắn trích, ba câu đều có từ sai hoặc thiếu:

"Trong vườn em trái ngọt đã “thấm” cành/ Hoa đã nở hương thơm dìu dặt tỏa/ Hạnh phúc đến chật vườn ong bướm “hót”/ Gió ôm mùi hương bay xa" ( tr. 470).

Tôi đối chiếu với “Sự im lặng biếc xanh”, trang 141, của Như Bình thì thấy tác giả Như Bình viết là: thắm cành, ong bướm hát và Gió ôm những mùi hương bay xa.

Tôi muốn dành những lời cuối để nói đến bài đầu tập “Góp thêm cách nhìn về nửa thế kỉ văn học”. Đây là một bài viết sâu sắc, công phu, vừa bao quát, vừa chi tiết, chi tiết từng tên tác giả và tác phẩm. Nhà phê bình Hữu Thỉnh đã khái quát rất chính xác hai việc lớn của 50 năm qua: Trả nợ quá khứ và nhập cuộc đổi mới. Tác giả đã giải thích rõ ràng, rất thuyết phục. Dẫn chứng về tác giả, tác phẩm vô cùng phong phú.

Riêng vấn đề biển đảo, Hữu Thỉnh dẫn chứng cha ông ta nói rừng vàng, biển bạc, mà anh chưa được đọc một áng văn hay nào viết về Biển. Nhưng 50 năm qua đã có "Đảo chìm" của Trần Đăng Khoa, "Trường ca Biển" của Hữu Thỉnh, "Tổ quốc nhìn từ Biển" của Nguyễn Việt Chiến, "Hòn đảo cuối chân trời" của Trần Nhuận Minh, "Quần đảo san hô" của Hà Đình Cẩn, "Từ biển mà lên" của Trịnh Công Lộc, "Hạ thủy những giấc mơ" của Nguyễn Hữu Quý, "Sóng trầm biển dựng" của Đoàn Văn Mật, "Đảo chìm và hơi thơ rừng chồi" của Vương Trọng, "Nơi khôn thiêng của biển" của Nguyễn Hữu Quang, "Trường Sa kì vĩ" của Sương Nguyệt Minh, "Biển xanh màu lá" của Nguyễn Xuân Thủy. (Mách nhỏ nhà phê bình Hữu Thỉnh là Trường ca "Biển mặn" của Nguyễn Trọng Tạo rất đáng kể vào đây!). Thật kính phục sức đọc, sức nhớ của một nhà thơ.

Nhà thơ Hữu Thỉnh viết “Phàm làm thơ, ai cũng mong đợi một lời bình. […]Sợ nhất là rơi vào im lặng”. Không biết tác giả có đợi lời bình từ việc viết phê bình hay không. Nhưng tôi cứ viết lời bình này, vì tôn trọng, khâm phục, quý mến nhà thơ tài năng Hữu Thỉnh, càng thêm quý mến nhà phê bình cự phách Hữu Thỉnh với 3 tập sách đã in!

Hà Nội, 17/6/2025

Nguồn: Văn nghệ Công an

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm