TIN TỨC

Nhà thơ Trăng Khuyết và “Trang thơ tình mùa hạ”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-11-01 23:54:35
mail facebook google pos stwis
1380 lượt xem

             NGUYỄN QUẾ

Nhà thơ Trăng Khuyết là một trong những gương mặt quen biết của làng thơ  Bình Dương trong nhiều năm qua. Năng lực sáng tác của chị đã được khẳng định qua tuyển tập thơ “Níu thu vào mộng”. Nội dung tuyển tập bao quát nhiều mảng đề tài, trong đó “trang thơ tình mùa hạ” là một trong những chủ đề tạo được ấn tượng trong lòng người đọc.

Tác giả Trăng Khuyết

Nói về việc lựa chọn bối cảnh tình yêu, nhiều người cho rằng đó phải là sắc thái lãng mạn của mùa Thu với lá phông vàng, với chiều “nắng nhạt” và những làn “mây nhè nhẹ”, “gió hiu hiu” như Xuân Diệu, “ông hoàng thơ tình Việt Nam” đã viết, hay là mùa Xuân với không khí ấm áp, cây cối đâm chồi nẩy lộc, đất trời rực rỡ ngàn sắc hoa, biểu thị cho sự sinh sôi và hạnh phúc. Có người lại cho rằng, nói đến tình yêu là nói đến sự rung động, đồng điệu của hai con tim, hà cớ chi phải tính ngày, chọn tháng? Mỗi người một ý, chẳng biết nói sao cho vừa. Còn với nhà thơ Trăng Khuyết, chị bộc bạch nỗi niềm đắm say với “trang thơ tình mùa hạ” của tuổi học trò. Đối với những nam thanh nữ tú chuẩn bị rời ghế nhà trường phổ thông, lòng bâng khuâng trước “thuở” mới “bước vào yêu”, có gì đẹp đẽ, lưu luyến bằng cảnh vật, thanh âm mùa Hạ? Đó là mùa chia ly có tiếng ve kêu rả rích, có những cánh phượng hồng mang theo “nghìn giấc mộng”, có những đóa sen thắm tươi trong màu nắng tinh khôi… Trước không gian đặc biệt ấy, người thiếu nữ thấy lòng mình sao bỡ ngỡ và xao xuyến quá:

“Sương mai sớm khẽ khàng đón hạ

Gió ngỡ ngàng chợt lạ chợt quen

Nắng vàng ôm nhẹ cành sen

Nửa trao nhung nhớ… nửa nghèn nghẹn tim

Dẫu năm tháng trôi qua, những kỷ niệm ấy không phai mờ trong lòng nhà thơ. Chị cảm thấy nuối tiếc, bâng khuâng, muốn “mượn” những năm tháng tuổi trẻ để “cầm về hong lại” nghìn  giấc mộng đẹp cùng một chút hương của tình xưa:

“Một thoáng hạ rơi nghìn giấc mộng

Của thuở nào còn đọng hương xưa

Cho tôi mượn tuổi đón đưa

Cầm về hong lại cho vừa… tình ai”.

(Một thoáng hạ)

Nhịp điệu, âm hưởng của những câu thơ song thất lục bát như tạo nên không khí vừa trang trọng, vừa đằm thắm, tha thiết, giúp tác giả dãi bày nỗi niềm sâu lắng của mình. Sau những phút giây tình tự, chị thoáng hăm hở, ước ao:

“Về hạ xưa

Về tìm tuổi thanh xuân năm mười bảy

Tìm bóng dại khờ chia cắt nửa vầng trăng”

(Hạ năm 17 tuổi)

Tình yêu tuổi học trò tuy “dại khờ” nhưng thật đẹp và luôn gắn liền với không gian đầy thơ mộng. Nhớ về cảnh cũ, người xưa, chị tha thiết, bâng khuâng:

“Phượng hồng rụng đỏ mùa thương

Hỏi người

còn nhớ hạ vương lưng trời”?

(Phượng hồng rụng đỏ mùa thương) 

Chẳng biết, chị “hỏi người”, “người” có nhớ hay chăng? Riêng mình, chị không thể nào quên những tháng ngày lưu luyến ấy. Chị tự bảo lòng:

“Em đi nhặt phượng chia lìa

Xếp đôi bướm hạ mang “dìa” ưu tư

Nhớ ngày xưa… chắc hình như

Cái câu ly biệt cũng từ trong mơ.”

Với nữ nhà thơ, mùa hạ đã xa luôn là quảng đời đầy ắp những kỷ niệm đẹp đẽ, để lại trong chị bao cảm xúc dạt dào, sâu lắng. Đó là những tháng ngày gắn bó với hình bóng người thương, với bao cảnh vật thân quen và những phút giây nhung nhớ. Nhưng tất cả đã thuộc về dĩ vãng. Chị tha thiết được sống lại những phút giây của “ngày xưa” ấy, dù chỉ là để “nhặt” những cánh hoa rơi:

“Một chút…

Một chút thôi nhé hạ!

Cho ta thương… ta nhớ ngày xưa

Đếm thời gian biết nói sao vừa

Người thương hỡi… em nhặt hoa làm kỷ niệm”

Lòng nặng mang nỗi niềm nhung nhớ, nữ nhà thơ cùng nhân vật trữ tình của mình tha thiết “gọi gió”, muốn được “vay một chiều mưa đổ” để tìm lại những phút giây mùa cũ nhưng ước nguyện khó thành:

“Một chút

Một chút hạ sao tình ta mải miết

Có còn chi

Thôi từ tạ phượng xưa ơi…”

(Một chút thôi… cho em về với hạ)

Gọi gió vay mưa không thể tìm về miền hạ gắn liền với bao kỷ niệm thân thương, nữ thi nhân đi đến bến cũ mong gặp lại những hình ảnh ngày nào nhưng vô vọng:

“Em về thăm lại bến xưa

Nhặt sầu ký ức rụng vừa sáng nay

Sông kia lạc kiếp u hoài

Hỏi mùa kỷ niệm trôi bay phương nào?”

Một câu hỏi đầy nỗi niềm sâu lắng mà chưa có lời giải đáp. Lòng người không khỏi xao xuyến, bồi hồi trước nỗi lạc lõng, cô đơn của những cánh phượng già nổi trôi giữa dòng sông – dòng thời gian và không gian xa vời vợi. Nhưng ngay cả cảnh ấy cũng chỉ là sự tưởng tượng pha chút hoài niệm xót xa:

“Phượng già một thuở cuối trời

Cánh hoa đỏ rụng chơi vơi giữa dòng”

(Chuyến đò đưa em vào hạ)

Tấm lòng thi nhân thật mặn nồng, tha thiết, nhưng tình mãi còn đâu như thuyền lạc bến? Trước nỗi niềm vô vọng ấy, người đành tự ru “nửa khúc tự tình”:

“Tình xưa

lạc bến giang đầu

Lỡ quên uống cạn giọt sầu thế nhân.

Mượn chiều sương bạc phù vân

Ru ta vào mộng…

đường trần…

ru ta…”

(Ru ta)

 Với câu lục bát biến thể, ngôn ngữ, nhịp điệu lời ru như vừa khắc sâu, vừa lan tỏa trong cõi lòng người thi sỹ. Nhưng càng ru, càng tỉnh. Một ngày, nhà thơ đành “xếp lại” tiếng lòng mình:

“Em xếp lại trang thơ tình mùa hạ

Có phượng hồng nhuộm cả một trời thương

Có hoa rơi lác đác ngủ ven đường

Che dấu chân tròn vương trên ngọn cỏ”

Dẫu đã quyết “xếp lại” bao nỗi niềm của những ngày tháng cũ, chị vẫn không thể nào quên trang mực tím học trò, và nhớ mãi đêm mưa lạc lối, nhớ “Bàn tay nắm nao nao đêm hò hẹn”, nhớ “Nhành phượng đỏ giấu nụ cười bẽn lẽn/ Trộm nhìn nhau len lén tuổi đôi mươi”… Tuổi học trò cùng mối tình của quãng đời đầy mộng mơ ấy thật đẹp nhưng cũng thường để lại bao nỗi “buồn dang dở” không thể phôi phai, và cảnh cũ, người xưa vẫn vương vấn mãi trong lòng thi nhân. Nhưng buồn mãi cũng chẳng giải quyết được gì nên người thơ đành“khép tuổi buồn một thuở bước vào yêu” :

“Hạ thương ơi… gửi lại lối cỏ mềm

Lời yêu dấu ru đêm… đêm vào hạ”

(Trang thơ tình mùa hạ)

Chất chứa bao nỗi niềm sâu lắng, trang thơ tình mùa hạ của Trăng Khuyết là những hoài niệm đầy xao xuyến, bâng khuâng về mối tình của tuổi học trò mười bảy, đôi mươi. Mối tình ấy thật trong sáng, đắm say và thơ mộng nhưng mang“nỗi buồn dang dở”, được tác giả thể hiện qua những câu thơ đầy xúc cảm, và có lẽ, qua đó, chị cũng đã nói thay nỗi lòng của bao người khác. Tuy “mộng ước không thành” nhưng đó mãi mãi là kỷ niệm đẹp trong cuộc đời của mỗi người. Cũng chính vì vậy, nó góp phần hướng lòng ta vươn tới những giá trị cao quý hơn trong cuộc sống.

Trong quá trình sáng tác, nhà thơ Trăng Khuyết đã sử dụng khá nhuần nhuyễn các thế thơ và thủ pháp nghệ thuật truyền thống, đồng thời có những sáng tạo của riêng mình. Tùy từng văn cảnh, từng sắc thái tình cảm, chị sử dụng những hình thức khác nhau. Khi là những câu lục bát uyển chuyển, nhẹ nhàng. Khi là lục bát chuyển thể để tăng độ nhấn. Lại có khi là song thất lục bát mang hơi hướng thơ ca diễn ngâm; hay thơ tự do, bảy chữ, tám chữ phóng khoáng… Đọc thơ chị, thi thoảng ta bắt gặp những câu, từ khá ấn tượng như “nắng vàng ôm nhẹ cành sen”, hay trạng thái “ngủ” của những cánh hoa rơi ven đườngBằng khả năng quan sát đầy tinh tế và nhạy cảm của mình, tác giả còn phát hiện được bức tranh tuyệt vời: Khi ngủ, những cánh hoa kia đang vô tình“che dấu chân tròn vương trên ngọn cỏ”. Đó là một hình ảnh đẹp và rất lãng mạn.

Thơ Trăng Khuyết giàu hình ảnh và nhạc điệu. Ngôn ngữ trong tác phẩm của chị phong phú, sinh động, uyển chuyển, nhiều lúc trang trọng và có sức lan tỏa. Đọc thơ chị, ta cảm nhận được những rung động của một hồn thơ giàu xúc cảm. 

Tuy nhiên, bên cạnh những cái đẹp, cái hay của tác phẩm, thi thoáng ta bắt gặp một vài từ ngữ, hình ảnh chưa thật hòa nhập với toàn cục. Ví như khi đọc câu “vầng trăng khuya mượn giấc mộng gối đầu”, hay những cụm từ “ngàn năm tao ngộ”, “giọt sầu thế nhân”, “sương bạc phù vân”..., người đọc dễ cảm thấy câu thơ chưa được khoáng đạt, còn cũ kỹ chưa phù hợp với ngôn ngữ hiện đại. Có lẽ, đó cũng là điểm chung của cả tập thơ. Phải chăng Trăng Khuyết muốn tạo nên một không khí thơ thật đặc biệt, có cả những chuẩn mực, biểu tượng xưa và nay để dãi bày bao nỗi niềm chất chứa trong lòng? Dẫu sao, đây chỉ là những vết gợn nhỏ. Thành công là nét chủ yếu và rất đáng trân trọng trong thơ chị nói chung và ở trang thơ tình mùa hạ nói riêng.

N.Q

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm