TIN TỨC

Những hoài niệm cứ thao thức trong thơ Nguyễn Đình Sinh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-12-29 14:43:10
mail facebook google pos stwis
1833 lượt xem

XUÂN TRƯỜNG

Tôi đã gặp Nguyễn Đình Sinh vào những năm chín mươi của thế kỷ hai mươi, trong những lần giao lưu bè bạn văn chương, của nhóm thân hữu giữa Bình Định và Gia Lai, anh nhiệt tình, sôi nổi, luôn mở lòng ra với bạn bè, dễ gần gũi, có những lần anh đã cùng bạn bè vượt đèo An Khê vời vợi lên miền Tây Sơn Thượng Đạo, để thưởng thức trăng rừng, gió núi với tôi, rồi lại có lần tôi cùng anh với gió cát, trăng sao, rót khuya đầy ly, ngồi nghe tiếng vọng của trùng khơi, trên bãi biển Quy Nhơn.

Nguyễn Đình Sinh là người lính trở về sau cuộc chiến, anh trở lại với con đường học vấn rồi giảng dạy tại trường Đại Học Quy Nhơn. Hành trang mà anh đã mang theo trong suốt hành trình thi ca là hình ảnh quê nhà, người mẹ, cây đa, bến nước, sân đình, con đò, sông trăng, có cô láng giềng mây mẩy dậy thì, những bước chân hành quân rạo rực Trường Sơn, những miền đất anh đã đến và đi đã gợi cho anh bao vẻ đẹp của non sông hùng vỹ.


Nhà thơ Nguyễn Đình Sinh và bìa tập thơ mới nhất của anh.

Những câu thơ tạc vào Trường Sơn, những hình ảnh không thể nào quên, đã làm cho ta xúc động biết bao: “Những bức thư tình viết xong không gửỉ được / Bởi nơi anh gặp em là ở chiến trường / Cô gái Trường Sơn tràn đầy mơ ước / Đã xếp bút nghiên tình nguyện lên đường”, và rồi anh đã “Giữ bức thư như báu vật chiến trường / Nay có dịp về Trường Sơn thăm lại / Xin thầm đọc tặng em với tấm lòng thành kính / Và sự chân thành người lính tới em yêu”. Lá đỏ Trường Sơn đã đi vào thi ca, nhạc, họa, là điểm nhấn trong ký ức Trường Sơn một thời máu lửa chưa xa và nay đã rơi vào thơ Nguyễn Đình Sinh những kỷ niệm nhạt nhòa thương nhớ “Giữa nơi đạn bom mịt mờ khói lửa / Chuyện tử sinh nào tính trước bao giờ / Em làm hoa tiêu qua ngầm đêm bom dội / Anh xót xa hoài nặng nỗi ưu tư”, rồi anh lại đau đáu “Mỗi độ giao mùa cây ngời là đỏ / Lại duềnh lên nỗi nhớ Trường Sơn”.

Những dòng lưu bút ngày xanh viết cho nhau ở lứa tuổi học trò mỗi mùa hoa phượng đỏ thắm sân trường, thường làm cho chúng ta nhớ nhung, man mác nỗi buồn ly biệt, chênh chao tuổi mới lớn, Nguyễn Đình Sinh cũng đã từng như thế, nhưng khi giã từ mái trường thân yêu để lên đường ra chiến trường anh lại sống giữa yêu thương lo lắng cho nhau của đồng đội, lứa tuổi đôi mươi, mười tám trăng tròn, hương thơm làm dịu cả núi rừng, làm nô nức con đường ra trận. Nguyễn Đình Sinh lại trưởng thành với những dòng lưu bút màu đỏ, nhắc nhau những năm tháng hãi hùng, gian khổ hy sinh, sống chết trong tấc gang, nhưng rất tự hào, anh đã tan chảy theo những dòng lưu bút màu đỏ ấy của những cô gái Thanh Niên Xung Phong, dẫn đường, canh đường qua ngầm sâu trong khi vẫn đạn nổ bom rơi trên đầu, có đó rồi mất đó, sự hy sinh bất ngờ, không ai biết trước được, những dòng lưu bút ấy đã thức dậy trong nhà thơ những hoài niệm khó quên, và ngày trở lại Trường Sơn anh đã nghe lòng rướm máu “Anh hiểu em, viết dòng lưu bút để tặng anh / Giữa hai đợt giặc ném bom vừa dứt / Để thể hiện tinh yêu người lính chiến trường / Tình đồng đội thiêng liêng hơn tình yêu nam nữ”. Rồi nhà thơ muốn tan theo dòng lưu bút ngược về lịch sử, để mà yêu thương trân quý, một hoài niệm hành trình “Vài dòng lưu bút em ghi mang hồn thiên sứ / Để anh nhớ về một thời hào hùng gian khổ / Vẫn còn ngời lên sắc đỏ yêu thương”.

Những câu thơ viết cho cảnh cũ người xưa, quê hương tuổi thơ, người thân, mẹ già, khói bếp, mây chiều, ngày xuân tháng hạ luôn đau đáu trong tâm hồn anh. Nhớ lắm yêu lắm, thương đến vô bờ anh đã viết ra những câu thơ tự nhiên như thế này “Từ phương xa con nhớ / Khói bếp chiều ba mươi /Cái rét đi ngang ngõ / Mùa xuân giăng đầy trời /…/ Và xuân về gõ cửa / Chợt thấy lòng bâng khuâng / Lửa bập bùng lòng Mẹ / Gọi giêng hai quay quần / Từ phương xa con nhớ / Khói bếp chiều ba mươi”. Người lính ra đi vào chiến trường, ngày về trong thanh bình lại tất bật áo cơm, lại xa quê lần nữa lại dặm dài thương nhớ quê hương, với tốc độ đô thị hóa đến chóng mặt hôm nay, không riêng gì Nguyễn Đình Sinh mà không biết bao nhiêu người con xa xứ khác, khi trở về đã thở dài thương nhớ ngày xưa “Tiếng vạc đêm đã thành điển tích / Chìm vào dĩ vãng mong manh / Quê giờ đã thành đô thị / Cánh vạc bơ vơ phố xá lên đèn”. Và anh đã nghe tiếng chim và hạt lúa lạc nhau, đây cũng là những ý lạ trong thơ Nguyễn Đình Sinh “Quê nay đã thành phố thị / Đông vui san sát nhà tầng / Về làng chân chim bối rối / Sương chiều mắt lúa rưng rưng”.

Anh đã lớn lên từ cái gian khó của quê hương, và dậy thì theo sắc đẹp của những cô láng giềng, để rồi sức vóc trai trẻ giữa trái tim trưởng thành “Củ khoai, đọt bí rổ cà / Ngoài vườn bòn mót đem ra chợ làng / Lời em rót mật dịu dàng / Áo bà ba mỏng hiền ngoan dáng người / Lưng ong thắt đáy nụ cười / Thắt luôn cả trái tim tôi với nàng/…/ Về quê lòng dạ bồi hồi / Xa quê tôi lại ngậm ngùi nhớ quê”. Ngày xưa Làng là đơn vị hành chính gắn liền với mỗi một con người sinh ra và lớn lên ở đấy, nơi thân thương gắn bó hữu cơ gần như máu thịt giữa những con người với nhau, bảo vệ nhau, thương nhau hết mực, bởi vậy mỗi khi có sự uy hiếp nào đó họ thường “la làng”, không dưng mà dân gian lại có câu ca dao “Bà con xa không bằng láng giềng gần”, nhất là những ngày xuân đến người ta lại nhớ làng da diết. Nguyễn Đình Sinh cũng đã từng “Mỗi độ tết về hanh vàng quê nỗi nhớ / Ngõ xóm nhà nhà hớn hở đón xuân / Là người con của Làng bao năm xa xứ / Rưng rức đi đau đáu nỗi niềm / Qúa nửa đời tha hương phiêu bạt / Tôi muốn về quê tạc lại chính mình”. Nhớ Làng là thuộc tính của mỗi con người trong chúng ta, trên những bước chân lãng du thi ca, nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng đã từng “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín / Lòng trí bâng khuâng sực nhớ Làng”, cảm xúc này đã và sẽ vượt thời gian dù rằng nhịp độ đô thị hóa có diễn ra từng ngày.

Trong thơ Nguyễn Đình Sinh ta thường thấy xuất hiện rất nhiều tiếng “em”, hầu như gần khắp cả tập thơ. Tôi nghĩ đây là những người em không cụ thể, anh hư cấu vào để đối thoại, để tâm sự, để giải bày, để kêu gọi, để năn nỉ, làm cho những bài thơ tình của anh như đang nở rộ yêu thương nguyên mẫu vậy. người em ở đây cũng có thể là, những địa danh, những bông hoa anh đã gặp và thân thương.

Nguyễn Đình Sinh đã quen viết những bài thơ ngắn không vần, anh quan tâm về ý, đa nghĩa đa chiều, ẩn, hiện, người đọc cũng khó đi hết chiều sâu của nó, thật ra viết thơ không vần không phải là dễ, nó vẫn cần cách nói, nhịp điệu, sự vang của âm thanh, giàu nhạc điệu. v.vv. Tuy nhiên thơ anh đã có từng bước vững chắc cho thể loại này. Từ “Gánh thời gian” qua “Tiếng vọng” đến “Gío còn thổi mãi” và nay đến “Nhớ một miền trăng”, thơ anh ngày càng khởi sắc. Với những chia sẻ trên đây, tôi xin mở cửa cho quý vị vào thưởng thức “Vườn trăng” của Nguyễn Đình Sinh xuất bản năm 2022. Tôi tin rằng thơ anh sẽ có bứt phá trong tương lai, và luôn ở lại trong lòng bạn đọc, xin chúc anh có sự thành công trong hướng đi của mình.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm