TIN TỨC

Những vần thơ vượt qua ranh giới

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-03-24 07:48:37
mail facebook google pos stwis
1851 lượt xem

MAI VĂN PHẤN

Thơ buổi sáng là thi tập đầu tiên của Nguyễn Đức Tùng xuất bản tại Việt Nam (Nxb. Hội Nhà văn, 2023). Ông là nhà thơ đã ghi dấu ấn trên thi đàn từ những năm trước đây, với các cuốn sách Thơ đến từ đâu (Nxb. Lao Động, 2009), Đối thoại văn chương (Nxb. Tri thức, 2012), Thơ cần thiết cho ai (Nxb. Hội Nhà văn, 2015)...

Thơ Nguyễn Đức Tùng chứa nhiều không gian tiếp nối, đóng-mở bất ngờ, làm hiển lộ những vẻ đẹp thảng hoặc, miên viễn… Thi tập này phong phú và có nhiều điểm khác với những bài thơ của ông trước đây, cho tôi hình dung về một Nguyễn Đức Tùng ung dung, tự tin đến thảnh thơi, có lúc tạt vào những ngã rẽ bất ngờ. Ông đã xác lập ranh giới cho riêng mình và cũng là người vượt qua những ranh giới ấy.

Thơ Nguyễn Đức Tùng giàu có, phong phú một cõi sống, trong suốt những cõi yêu, sắc lạnh những cơn giận dữ, được viết bởi nhiều phong cách với lối kể chậm rãi, nhẹ nhàng và thường cố ý hạ giọng pha chút bông lơn khi đề cập đến những điều hệ trọng. Đó là giọng bình thản an nhiên mà thấu tận tâm can. “Một số người luôn đến đúng giờ/ Một số người thường xuyên lỗi hẹn/ Một số người mở vết thương ra/ Một số người khâu nó lại” (Đàn ông)

Hành trình trong mỗi bài thơ của Nguyễn Đức Tùng không chỉ đơn thuần là khoảnh khắc sống, dấu ấn tâm trạng, không chỉ là cái đẹp cho người đọc thưởng thức, mà nó thường đi, vượt, xuyên, trượt qua một hay nhiều ranh giới.

Ranh giới tự nhiên của nghệ thuật là ranh giới nhận thức của con người. Nghệ thuật cận đại thế kỷ XIX và hiện đại thế kỷ XX hầu như đã vượt qua mọi ranh giới của các loại hình, trong đó có thơ, để mạnh dạn đi đến những nơi mà trước đó chưa có ai vượt qua. Có nhiều ranh giới khác nhau trong nghệ thuật: ranh giới của thi pháp, phong cách, ranh giới thẩm mỹ... Đối với kẻ sáng tạo, những ranh giới ấy không bao giờ cố định, mà thay đổi, làm xuất hiện những quan niệm mới, vẫy gọi mới.

Nguyễn Đức Tùng là cây bút đa tài, tung hoành trong mọi thể loại, từ văn xuôi, dịch thuật đến thơ, phê bình. Ông là một trong số ít những tác giả hiếm khi phải “đi qua vùng tối” hoặc “chiếu nghỉ”, tức hiếm khi phải trải qua một giai đoạn ngừng viết, lắng lại để tích lũy, chiêm nghiệm. Dấu ấn thơ Nguyễn Đức Tùng là hành trình liên tục đi tìm cách viết mới, quan niệm mới. Có thể nói, thơ ông đã vượt qua nhiều ranh giới do chính ông tạo lập. Từ ranh giới ấy độc giả biết thêm nhiều quan niệm nghệ thuật khác, không gian khác nữa của ông.

Ranh giới tâm lý nói chung phụ thuộc vào giới hạn chịu đựng của mỗi cá thể. Sự vượt quá giới hạn tâm sinh lý thông thường của con người, nhưng tồn tại trong đời sống nghệ thuật lại phát sinh những chuyển dịch khác, hệ quả khác. “Mục đích của khăn tay/ Không phải để lau nước mắt/ Mà để chùi thật sạch/ Bia mộ trong cỏ xanh.” (Mục đích của áo quần)

Những ranh giới trong thơ Nguyễn Đức Tùng như cùng chung một áp lực, sức lan tỏa. Có thể là: “Một người đàn bà/ Đi sâu vào gương” (Trong tiệm hớt tóc). Là con ma của tình yêu: “khi tôi lái xe rất nhanh trong nỗi nhớ thầm/ nó xiết chặt thắt lưng an toàn của tôi lần nữa” (Con ma). Hoặc có khi ranh giới ấy chỉ là đường bay của một con muỗi lúc nửa đêm: “Kịp lặng lẽ đẻ trứng xuống/ Bể nước đầy cơn mưa cũ.” (Đêm ngủ trong chùa)

Tiêu đề bài thơ của Nguyễn Đức Tùng cũng là một ranh giới. Ông thường dùng những khẩu ngữ quen thuộc, dung dị như câu nói đời thường của bất kỳ ai: Chúng ta đã làm một lần; Em còn trẻ và em không thể biết; Nếu em muốn, thì anh cũng muốn. Đôi khi là câu nghi vấn: Chúng ta sẽ yêu nhau như thế này chăng; Tại sao chúng ta sống lại. Hay một mệnh lệnh thức: Hãy để chim chóc làm đầy bầu trời; Tắt hết đèn đi... Và lạ lùng hơn, nhiều khi ông đặt tiêu đề bài thơ như tên một bản thống kê, trần thuật: Một trăm việc bạn phải làm trước khi chết; Những hoàn cảnh khác nhau... Khi đọc vào nội dung những bài thơ của Nguyễn Đức Tùng, độc giả sẽ nhận ra những tiêu đề ấy chính là những lằn ranh mình vừa vượt qua.

Nguyễn Đức Tùng thường tạo ra thói quen để phá vỡ những thói quen, chủ ý mang tới sự  dung dị đời thường để bất chợt xuất hiện những biến ảo xuất thần. Thủ pháp này chỉ những tác giả có nội lực mạnh, thi pháp vững vàng mới có thể thực hiện thành công. Cách tạo ra những ranh giới nhiều khi được ông sử dụng để viết câu thơ đầu tiên trong bài. Những câu thơ dạng này đọc lên như người tung hỏa mù, đánh trống lảng, khiến ta ngỡ ngàng không biết nhà thơ sẽ nói gì, sẽ đưa đến đâu. “Tiếng cú rúc sân chùa/ Thằng bạn tôi gõ cửa bằng chân phải” (Chùa trên núi). Hay: “Tôi mang một loài hoa của làng tôi/ Đi suốt năm này qua năm khác/ Không còn ai biết” (Một loài hoa của làng tôi)

Những câu thơ trên là hình hài khoảng không, địa giới của phía bên này ranh giới mà tác giả chủ định đặt bầy. Không gian ấy vắng lặng, được nén chặt, cho tôi liên tưởng tới những khoảnh khắc trước trận chiến. Ngón tay của “người lính” nào đó đã đặt vào cò súng, viên đạn sẽ vọt khỏi nòng ngay tức khắc, hoặc mãi nằm yên.

Những bài thơ của Nguyễn Đức Tùng có thể xuất hiện những ranh giới khác nhau, tùy thuộc vào từng tình huống và câu chuyện được dẫn dắt. Tại những khổ thơ kết, Nguyễn Đức Tùng thường tạo ra những giới hạn để vượt qua. Trước một số khổ thơ kết, quả thực, có lúc tôi cũng thấy hơi sốt ruột bởi nhịp điệu chậm, giọng kể rề rà của tác giả, thí dụ: “Khi nửa đêm trời sao tối dần, sương mù/ Rơi lặng lẽ, bầy sếu bay qua/ Cất tiếng kêu, tiếng chúng không hay lắm/ Buồn rầu, cô quạnh, khàn khàn, xa vắng” (Chúng ta không cần phải đẹp lắm).

Nhưng tôi đọc tiếp và bắt gặp ánh chớp, sự va đập mạnh ở đoạn kết. Không ít lần tôi ngỡ ngàng tự hỏi, phải chăng tác giả đã bông đùa độc giả? Nhưng không, đó chính là thủ pháp độc đáo của ông.

Vì đã hiểu Nguyễn Đức Tùng và thủ pháp này, nên tôi thường bình tĩnh lắng nghe hết những câu chuyện ông kể. Đây là chuyện nhà thơ đi tìm người thợ may để lấy chiếc áo mà anh trai ông đã đặt. Và nhà thơ đã mang đến điều bất ngờ. “Tôi mặc chiếc áo vào người/ Bước đi trên mặt nước xanh trong” (Chiếc áo). Hay, câu chuyện lạ lùng trong bài thơ “Nếu bạn có một trái tim”. Một trái tim khổ đau đã khô cứng như đá đặt ở góc vườn. Rồi một hôm tác giả trở lại góc vườn xưa, gặp bức tượng Phật mỉm cười. “Bằng đồng, khô, cứng, đen, lạnh toát/ Chỉ lúc đêm về mới ướt sương”.

Nguyễn Đức Tùng đã đưa độc giả đi xa hơn những giới hạn tưởng tượng, biến những bình dị đời thường thành phi thường, thậm chí đó là những điều phi lý mà ta vẫn có thể chấp nhận được. Trong vùng mờ của ranh giới này, những thi ảnh như được thoát xác khỏi câu chữ và tiêu dao trong một đời sống khác.

Cách tác giả vượt qua những giới hạn này gợi cho tôi tưởng tượng Nguyễn Đức Tùng giống như một con cá sấu nhịn thở hàng giờ dưới nước, nằm bất động để dụ những con mồi đến gần. Thủ pháp này được nhà thơ sử dụng rõ nét nhất trong bài thơ Con mèo. Bài thơ không dài, nguyên văn như sau:

Trước rạng đông

Người đàn ông bị dẫn tới

Chân tường, hay tay trói giật lại

 

Con mèo chạy theo chủ

Bị tóm cổ ném vào đám người

Nhưng nó nhìn thấy

Từ chân trời đám mây đen kéo tới

 

Mới đầu: một chấm. Như khăn bịt mặt

Giữa trời bao la, lớn dần

Sắp quét sạch mọi điều, máu và nước tiểu

Nó câm bặt, móng bám chặt vào mặt đất

 

Suốt ba ngày cho đến khi người đàn ông sống lại.

 

Ba khổ thơ đầu để dẫn chuyện, một con mèo trung thành với chủ của nó như bao con mèo khác. Hành động câu chuyện diễn ra tuần tự, đơn tuyến, ai cũng đoán được. Tôi liên tưởng cả ba khổ thơ này như con cá sấu nằm giả chết. Nhưng câu kết bài thơ xuất hiện tựa tiếng nổ lớn. “Suốt ba ngày cho đến khi người đàn ông sống lại.” Ở đây, “con cá sấu” đã bất ngờ đớp trọn con mồi. Tác giả đã cho “người đàn ông sống lại” sau ba ngày cùng con mèo, làm tôi liên tưởng đến sự phục sinh mầu nhiệm của Chúa Giê-su, một tín lý quan trọng trong Ki-tô giáo.

Trong thơ Nguyễn Đức Tùng, ranh giới giữa thơ và phi thơ được thể hiện rõ nét trong những bài thơ ba câu (mà ông gọi Haiku). Trong thể thơ tối giản này, thời gian để nhân vật tái sinh, thăng hoa, hoặc biến hình chỉ trong chớp mắt. Giống như khi ta nghe tiếng súng nổ mà không thể nhìn thấy đường đi của viên đạn đã đến đích. Cuối năm: Treo bức ảnh của cha/ Lên tường/ Miệng ngậm cái đinh. “Trong phòng nhổ răng”: Người nha sĩ/ Xoay mặt tôi/ Về phía rừng thu.

Câu kết của hai bài thơ trên đều là những cái đích chờ sẵn, để từ đó không gian khác được mở ra, thần thái bài thơ được hiển lộ. Mọi ngôn từ của hai bài thơ đều ở bên này lằn ranh, đều đứng ở vạch xuất phát để nhường chỗ hoặc chờ đợi những xung động nơi người đọc khi bài thơ kết thúc. “Miệng ngậm cái đinh” và “Về phía rừng thu” là trạng thái đóng chuyển thành mở, hữu hạn hóa thành vô hạn. Là hạt giống được gieo, sinh trưởng.

Tiết tấu để hình thành những ranh giới trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường chậm, thể hiện rõ nhất trong những bài thơ ngắn, tự do. Nhưng trong trường ca, ông tạo ra giọng điệu khác hẳn, gấp gáp, gây áp lực và đẩy mọi chuyển động đi rất nhanh. Ông viết nhiều trường ca, nhưng chọn Bài tiễn biệt thi sĩ để in trong thi tập này. Từ khổ thơ đầu đến kết thúc trường ca là dòng thác đổ xuống liên tục, mạnh mẽ. Những câu thơ vụt hiện như cả đoàn quân chuyển động gấp mà không biết “dự lệnh”, “động lệnh” từ đâu. “Từ trong vùng tối/ Sương mù bay đầy trời/ Anh Du Tử Lê vừa mất/ Sau những ngày thật im lặng/ Điện thoại sáng lên như vầng trăng/ Dưới gối/ Gọi người về”.

Đây là bản giao hưởng thơ. Tính xung đột, tính kịch không nằm trong kết cấu trường ca, không trong lời thoại của các nhân vật mà được thể hiện trong số phận chìm nổi của họ. Những gương mặt đã làm nên diện mạo văn học Việt Nam trong hơn thế kỷ qua như lần lượt vụt hiện qua sân khấu. Những nhân ảnh thấp thoáng, ấn tượng, sáng rõ, mờ nhòe... “Hà Nội phải nhìn từ phía ấy/ Như Mai Thảo nhìn từ trên xuống”; “Khói thuốc lào xanh chiều nghiêng đổ/ Lã chã mưa dầm/ Gác Hoàng Cầm/ Nối ruồi son thánh thót”; “Hoàng Ngọc Hiến bảo: anh cứ mê chuyến đi Bắc Ninh của anh em mình quá “...

Trường ca Bài tiễn biệt thi sĩ là cuộc đưa tiễn mà cũng là chào đón thi sĩ Du Tử Lê về với vĩnh hằng bằng trùng trùng những lớp sóng gối lên nhau. Tác giả không dừng lại ở sự kiện, chi tiết từng nhân vật, từng trường đoạn mà để cảm xúc cuốn các thi ảnh đi nhanh. Trường ca chuyển động theo dòng ý thức, nương theo đời sống nội tâm, những liên tưởng tự do bất chợt vụt hiện cùng cảm xúc của người viết. Tác giả đào sâu vào tiềm thức các nhân vật trôi nổi theo dòng ấn tượng, cho họ bộc lộ nỗi ám ảnh, sợ hãi, lầm lẫn, những dằn vặt, tự vấn... Vẫn là những kết cấu phần mảnh, nhưng trường ca được “phong kín” bằng cảm xúc mạnh, liên tục, nhất quán, đưa người đọc vào một không - thời gian đa chiều, gợi những liên tưởng cứ chợt đến chợt đi, từ hữu hạn chuyển sang vô hạn.

Thơ Nguyễn Đức Tùng chuyển động theo hai hướng: truyền thống và hiện đại. Những bài thơ ông viết theo phong cách truyền thống tuy hình ảnh mới lạ, tràn đầy xúc cảm, nhưng nhịp điệu đôi lúc quen thuộc, lối dẫn dụ câu chuyện cũng không mới. Tôi yêu thích những bài thơ theo phong cách hiện đại của ông hơn và chờ đợi những tác phẩm của ông nối tiếp khuynh hướng này. Cả hai khuynh hướng ông viết đều giản dị, có lẽ càng giản dị thơ ông càng hay, càng ám ảnh. Nguyễn Đức Tùng là người thường xuyên tiếp xúc với văn hóa phương Tây, am tường văn học phương Tây, nhưng dường như ông không bị chi phối, ảnh hưởng bởi bất kỳ khuynh hướng nào. Đôi khi ông sử dụng thủ pháp diễu nhại, phần mảnh của trào lưu hậu hiện đại, nhưng vẫn mang phong cách riêng. Những câu thơ sau đây buông thả tự nhiên nhưng hiển lộ sự uyên bác, hóm hỉnh của riêng ông. “Ghé tai anh, ông nói thầm/ Còn kiếp trước tôi là con chuột/ Anh mua cho ông một cái bánh ngọt/ Croissant” (Ở Paris)

Hình ảnh trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường duyên dáng, mang nét đẹp truyền thống. Một số bài thơ của ông vang vọng như những bản tình ca. Tôi thực sự yêu thích những câu thơ như: “Hoa cúi mình đợi gió/ Đất cúi mình chờ em” (Nếu em muốn, thì anh cũng muốn); “Anh nhớ em nằm trên thảm ấm/  Anh nhớ em quần lót vướng gót chân” (Đời là thế đó).

Một ranh giới khác mà thơ Nguyễn Đức Tùng đã vượt qua là ranh giới của sự giản dị. Tôi muốn nói đến tiêu đề tập thơ này của ông: Thơ buổi sáng. “Buổi sáng” ở đây được hiểu là khởi đầu của ngày mới, là buổi bình minh, sự mới mẻ, khai sáng, nó đến và đi theo quy luật tất yếu. Nhưng khái niệm ấy đi liền với thơ, biến thành thơ, tự nhiên tựa hơi thở, khí trời thì lại là điều phi thường. Với cá nhân tôi, đây là cách đặt tiêu đề cho một tập thơ của thi sĩ đã chạm đích. 

Nguyễn Đức Tùng viết tập thơ này trong và cho buổi sáng hôm nay. Phía trước nhà thơ còn nhiều buổi bình minh thơ nữa, dĩ nhiên vậy. Trong thi tập này tôi hầu như không thấy bài thơ nào xuống sức. Nhà thơ của chúng ta đang ở độ chín và sung mãn. Vậy liệu có ai đoán được ranh giới của Thơ buổi sáng tiếp theo của ông không?

Nguồn: Văn nghệ số 11/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm