TIN TỨC

Nước mắt trong Lục Bát Mẹ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-11-29 13:52:30
mail facebook google pos stwis
248 lượt xem

HOÀNG XUÂN

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.

 

Nhà thơ Đỗ Thành Đồng và những người bạn trong lễ ra mắt tập thơ "Lục Bát Mẹ"

 

Những tập thơ đầu anh không ra mắt mà chỉ là giới thiệu, đến Đá anh ra mắt một cách khá bài bản. Và các tập tiếp theo, anh lại “lặng lẽ dâng cho đời” những giọt mật thơm giữa muôn vàn hoa trái. Như một lẽ tự nhiên của sự biến hóa trong cõi dân gian, vật chất sinh ra và vận động không ngừng, đến Đá trở nên vững chãi. Rồi sau đó lại biến chuyển thông qua lăng kính của một kiến trúc sư về thẩm mỹ học, qua tôi luyện lại tiếp tục sinh ra Lục Bát Đời, sự nung nấu qua thời gian mà sinh ra Lục Bát Mẹ. Vài điểm xuyết như thế để thấy, Đỗ Thành Đồng luôn vận động và kiến tạo thơ mình một cách vững vàng trên thi đàn văn học đương đại.

Buổi ra mắt trong một không gian gia đình, đầm ấm, không rộn ràng nhưng chứa nhiều cung bậc văn chương. Theo cách đếm thông thường, tôi đã bật khóc ít nhất là 5 lần. Nhà thơ Nguyễn Tiến Nên đã nghẹn ngào khi đọc mấy câu thơ trong “Con hư”, với một lời trách cứ đầy xót xa:

chiều nay rét tím cong mồ

mạ nằm dưới nớ ướt khô răng chừ

con là một đứa con hư

giữ không được mẹ giống như bạn mình

mạ ơi giữa cõi phù sinh

may con còn mạ bóng hình lương tri!

Những câu thơ mang nhiều biểu cảm lạ lùng, như một tiếng nấc bật lên giữa đời thường. Xuất phát từ một chi tiết nhỏ của mạng xã hội, vốn quen thuộc và bình dị “bạn khoe ảnh mẹ trên phây”, đủ khơi lên trong anh nỗi chạnh lòng sâu thẳm. Hình ảnh nụ cười mẹ bạn “tỏa ánh sáng ngày giá đông” gợi sự ấm áp, sum vầy nhưng đã mang đến cho anh cảm giác hụt hẫng. Và ông xúc động nói “Đỗ Thành Đồng đã làm được một điều phi thường vốn xưa nay hiếm, còn tôi thì đã ngoài 70 mà vẫn chưa ra trò trống gì, khi viết một câu thơ về mẹ cũng chưa nên hồn”, mặc dù mẹ ông cũng đã rời xa ông hơn 11 năm.

Nhà thơ Mai Văn Hoan, khi đọc đến “Mẹ kiêng” cũng đã lắng lòng trong giây lát:

tháng ba cá trích tươi xanh

đứng nhìn một lúc mẹ đành về không.

Những câu thơ sao cứ xoáy vào tâm can nhân tình đến thế, bởi người mẹ cả một đời cơ cực, tần tảo vì chồng vì con mà quên hết bản thân mình. Không có tiền mua cá, nhưng rồi nghĩ đến chồng con mà đành vay mượn:

phần cha con đã chục tròn

lẽ nào phần mẹ chỉ còn nước kho

mẹ cười con chớ có lo

mẹ kiêng cá trích ăn vô bệnh liền

Tôi đã đọc đi đọc lại 5 lần tập thơ, cứ mỗi lần đọc lại có một sự rung cảm rất riêng. Riêng bởi vì trong đó “vừa có mình vừa có ta”, và hơn ai hết, tôi cũng là đứa con chịu mồ côi mẹ khi mới vừa tuổi 42, trẻ hơn nhiều so với tuổi khi mồ côi mẹ của tác giả. Cũng như mẹ bao người, mẹ tôi có bao giờ giữ cho mình được má phấn môi son, và là phụ nữ nhưng chẳng bao giờ biết đến “môi son” là gì:

trời cho một chút môi son

mẹ đem phơi nắng vì lon gạo đầy.

Cuộc đời mẹ tần tảo là thế, cho nên khi chạm đến lòng trắc ẩn của 2 câu thơ, tự nhiên nước mắt cứ rơi. Cũng trong cảm xúc ấy, trong “Mạ lo”, anh lại đưa người đọc vào một miền kí ức khác:

sinh con má nỏ kịp thơm

đã quang gánh níu đã rơm rạ đè.

Hình ảnh lưu lại trong tiềm thức của nhiều người, khi nhìn thấy sự lam lũ, sự cơ cực của mẹ, và cũng là tiềm thức chung:

mỗi lần rét quắn đọt cây

là khi mẹ nứt nẻ đầu gót chân

Và trong “Nhớ mạ”, anh đã dùng phép “đếm” để làm nổi bật sự vất vả của mẹ:

mạ ơi từng đốt ngón tay

mạ còn ám cả tháng ngày gian truân

Hình ảnh người mẹ một nắng hai sương, cày sâu cuốc bẩm vì sự khôn lớn và vì giấc mơ con chữ của con, mà mẹ quản chi mưa nắng, giá rét, đặc biệt là khi xuống ruộng cày cấy cho vụ đông xuân trong tiết trời buốt lạnh. Và có lẽ gót chân của mẹ chẳng bao giờ đẹp đẽ, thậm chí có khi tứa ra cả máu tươi. Tiếp nối cảm xúc ấy, tác giả lại “thương ngày tết xưa”:

chân trần giẫm nát cơn mưa

sáng ba mươi tết cơm chưa đủ nồi.

Đi trong ngày, đi trong đêm, đi xuyên suốt cả năm, thế mà đến ngày cuối cùng của một năm, trước thềm của năm mới, mẹ đã hết lo đâu, phải chăng mẹ lại lo nhiều hơn những ngày thường. Không lo sao được khi “cơm chưa đủ nồi” mà con thì đang đói. Có người mẹ nào mà chẳng đứt cả ruột gan vì miếng cơm manh áo của con chưa đủ đầy, trong khi trời đất đã sắp vào xuân.

Làm lụng vất vả quanh năm, vậy nên khi miêu tả về dáng mẹ, nhà thơ viết:

lặng nhìn trăng khuyết cuối trời

tự nhiên thương lắm dáng người mẹ cong (trăng mẹ)

Câu thơ cứ thế tuôn trào, và rồi người đọc cũng cứ thế nước mắt lại rơi:

kiếp trăng khi khuyết khi tròn

mẹ thì năm tháng khuyết mòn cả đêm.

Những người mẹ của một thời lam lũ, vậy nên chẳng có khi nào “tròn” trong sâu thẳm tiềm thức của con.

Trong bài “con thèm”, theo nhà thơ Mai Văn Hoan, cái thèm của Đỗ Thành Đồng không giống ai và không mấy ai xây dựng được hình tượng “thèm” này, và nhà thơ khi chia sẻ đến đây cũng đã rơm rớm nước mắt vì sự đồng cảm:

con thèm cái chúm ngón tay

mạ bắt con chấy mỗi ngày cho con.

Hình ảnh này tôi lại nhớ đến mẹ tôi, cứ hở tay ra là lại chụm đầu con để bắt chấy. Mà sao ngày ấy chấy nhiều đến thế không biết nữa?

Nói về sự dạy dỗ của cha mẹ với con cái một thời, cũng trong cảm xúc “con thèm” nhà thơ dựng nên một hình ảnh rất đáng suy ngẫm trong tâm tưởng:

con thèm một nhánh ổi non

mạ bứt hết lá để còn làm roi

Tôi cũng đã bao lần nếm đòn roi của mẹ, nhưng cớ sao cái đòn roi ấy nó thân thương đến thế, và buộc nhà thơ phải “thèm”. Đây không chỉ là một thứ hoài niệm không thôi, mà còn là một lát cắt xuyên qua thời gian, khi coi đòn roi như là một thứ “xa xỉ” với trẻ thời hiện đại.

Trong “nhặt rét”, hình ảnh “bỏng tay” là một tứ thơ hay và có sự biến ảo lạ thường, cái tưởng chừng như vô lý nhưng lại hết sức có lý:

con ngồi vén lớp mưa bay

nhặt từng ngọn rét bỏng tay kiếp người

Với mẹ, 60 tuổi hay đến cả trăm tuổi trên đầu, con vẫn là con ngoan của mẹ, mẹ vẫn lo cho con. Ấy thế cho nên:

con đau biết gọi mẹ ơi

mẹ đau chỉ biết cả đời cắn răng (nỗi đêm)

Hay trong “núm vú”, tôi thực sự xúc động và lại bật khóc:

ngày xưa con ngứa răng non

cắn vào cơn đói mẹ mòn mỏi đêm...

Khi con ngồi “đợi mẹ” sau một ngày lam lũ ngược xuôi ngoài chợ, “xáo” từng mớ gạo để may sao có ra “lon” gạo lời, mang về nấu bữa cho con, nhà thơ lại rưng rưng:

chợ chiều cắp thúng mẹ đi

xáo từng mớ gạo cho hi vọng ngày

Trong sự lo toan nhưng cũng rất đỗi tự hào, rằng mẹ mình chính là một nhà nông đích thực, và dù vất vả đến mấy, mẹ vẫn luôn thường trực điểm sáng trên môi:

nông dân chỉ có nụ cười

mẹ hôn đá sỏi bằng lời ru con

Còn trong “đường tu”, tôi cho rằng đây là một bài thơ mang hơi hướng thiền. Vì cái đói của con mà mẹ “sát sinh” chẳng tha thứ gì, mẹ biết đó là “tội lỗi”, nhưng chỉ mong con khôn lớn mỗi ngày và cứ từ bi trong tâm mình:

đã không gõ mõ tụng kinh

mẹ còn phạm giới sát sinh mỗi ngày

….

mẹ ơi Phật ở trong tâm

lời ru của mẹ vẫn chầm chậm rơi…

Và cuối cùng, nhà thơ lắng lại bằng những lời ru của mạ, mà trong tập thơ này, anh đã nhắc đến 35 lần chữ “ru”:

con dù bèo dạt mây trôi

trăm năm thơ vẫn đọng lời mạ ru (đọng)

Trong tâm trí nhà thơ, cũng như bao người con, mẹ luôn ở bên con, mà dõi theo từng bước đi, từng lát cắt khi đục khi trong của cuộc sống, và mẹ chính là sự hiện thân của “sắc xanh”:

mẹ nằm dưới thảm cỏ non

bao nhiêu gót mẹ hãy còn sắc xanh (gót mẹ).

Đọc và ngẫm trong Lục Bát Mẹ, mỗi câu thơ như một giọt nước lăn dài trên khóe mắt của người đọc, và đó là những giọt nước rung cảm, rung động và rung tứ khi trái tim đã chạm đến được với trái tim.

Ba Đồn, 26/11/2025   

H.X

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm