TIN TỨC

Xuân về, đọc thơ Trương Nam Hương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-28 08:06:42
mail facebook google pos stwis
1521 lượt xem

TUẤN TRẦN

(Cảm nhận tập thơ “Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương)

Chủ thể trữ tình trong “Thời nắng xanh” xuất hiện là một người con với tấm lòng thương thảo, mộc mạc, đơn sơ gắn liền với nỗi bồn chồn thầm lặng. Nhàu nhĩ màu thời gian ăn ngấm trong tâm thức những mùa qua…

Nhưng sau tất cả, đấy vẫn là “nỗi buồn mong manh” mang “Ánh mắt mùa xuân/ Dịu dàng” đủ vững vàng để làm điểm tựa tâm hồn cho những người con của thời đại hôm nay. Điều này khác với cái buồn nẫu rục thế sự, đậm dày đạo lý, hay tiếng thở dài bi thảm của những hồn thơ đã từng cất vang. Cảm thức buồn thương ấy như là một cách khái quát về cuộc đời và thân phận con người từ ánh nhìn đong đưa, giao cảm nơi một cá thể giàu lòng trắc ẩn.


Tác giả Tuấn Trần và nhà thơ Trương Nam Hương.

“Từ thuở ấy”, tác giả đã mở ra không khí thơ “Buổi sớm mát lành trong trẻo lạ/ Sau đêm, mầm nõn bỗng xanh òa/ Cây ở ân tình thơm thảo quá/ Thanh lọc lòng ta những cánh hoa”.  Nhưng nội hàm của “thưở ấy” để có được sự “thanh trong” lặng thầm nơi hồn cốt trữ tình là tháng năm qua đi, tình đời, tình người bùi ngùi dư ảnh: “Mẹ ra ngoài cõi vô thường/ Rưng rưng con thắp nỗi buồn vào thơ”. Đã biết bao tha thiết, nồng hậu, đẹp lành lẫn khổ đau, thương tổn và cả nhầm nhỡ. Bao nếm trải ngậm ngùi, xót tiếc về “Bốn mùa thao thức tuổi rêu phong”… Nhưng sau tất cả, là nhẹ nâng thức, cảm tạ tháng ngày thứ tha bao dung đã không làm rụi tàn những “cũ kĩ” thân thương: “Chưa ngõ lời yêu/ Nghe nhành đã biếc/ Em nồng nắng Hạ/ Lại đằm mưa Thu”.

Con người đã từng trong nhau đó mà khi khuất bóng sao xa vời đến thế: “Con biết tìm đâu giữa chơi vơi”… Suy cho cùng, không thể chống lại được phai tàn, nào ai đua được với thời gian nên đành khép nép “…nhận mình nhỏ bé - Thản nhiên xanh”. Chỉ có thể run ngân những nhịp đàn lòng thổn thức để nán lại bên nhau trong đôi tiếng “ầu ơ…ngồi dỗ nỗi buồn bờ xa”. Còn ai đó ngồi lại bên ta, cho ta một quãng an/ yên giữa nhịp đời ngược xuôi cũng là hạnh phúc quá đỗi lớn lao: “Ngắm những bông hoa em cắm/ Dịu dàng năm ngón thơm ngây”. Tiếng thơ như nâng giấc, đỡ đần, dìu dựa. Đâu đó có một chú chim nhỏ nơi bờ cỏ dày nguyên sinh, nem nép dịu dàng, gặp dịp tương ngộ cất lời líu lo… Cây đời tỏa bóng “biếc xanh” ôm ấp những dấu chân xưa! Và neo lại “Bóng làng xa” trong nhịp nhàng tiếng ca.

Đến sau “nỗi buồn khôi nguyên” là một thế giới cho sự bền bỉ niềm tin tưởng vươn với tới cái đẹp và những giá trị tinh thần lưu cửu, xanh tươi: Ta soi vào ta/ Gặp dòng nước mắt/ Mỗi sáng em cười/ Níu ta khỏi lạc”. Chúng hiện diện như “Một gò trăng viên mãn giữa tay anh”. Đồng thời như một “Tiếng chim mượn lá để tu từ” trong thẳm sâu tâm hồn thi sĩ. Điều này tạo nên dáng nét trong xanh vời vợi nơi chân dung linh hồn vốn yên ắng, thuần lành của tác giả: “Mây ngơ ngóng dưới vòm trời cổ tích/ Dưới vòm trời tóc ngoại - một bà tiên”

Với một tấm lòng thật sự đôn hậu, thao thiết yêu đời, cho nên ngay cả trong nỗi buồn, trong ưu tư, dằn vặt nhà thơ luôn biết nâng niu, thưởng thức những “kí ức vùi thơm…”. Đó là bờ môi “hớn hở”, “Sài Gòn bất chợt tinh khôi”, là “Anh mượn màu nắng Huế để thương em”.... Anh đặc biệt tin vào cái vĩnh cửu của lẽ giản đơn trong đời thường “Bếp mẹ mùa đông trấu tro vẫn đượm/ Vênh đáy thớt kê đít nồi khói rớm”. Những niềm vui vun vém kín đáo, thanh cao, dịu ngọt “Lật từng mùa thổn thức/ Trong veo tên em/ Gương mặt ấy/ Sáng lên hi vọng”. Tận hưởng cái đẹp nồng thắm và giản dị đó chính là “niềm hân hưởng thuần khiết” của một trái tim mê đắm như “…bát canh ngọt mát/ Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình”. Chính cảm quan ấy đã biến thực tế đời sống “Thấp hèn – cao thượng giao tranh”, trở nên “lấp lánh sự sống”. Không hề tách rời muôn nỗi “Nghe mùa trở gió hoang mang” nhưng đồng thời trong đẹp hơn, dịu dàng hơn, nên thơ hơn, và ngàn lần cao cả hơn. Tất cả được “gạn đục lóng trong” qua một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và khiêm nhường: “Phải em cùng cơn mưa ấy/ Lạc mùa vừa ướt qua tôi”.

Với Trương Nam Hương làm thơ là để lắng nghe sự sống của từ, gọi về những giấc mơ tinh thần đẹp đẽ. Lý tưởng được đắp bồi từ những “Bóng quê”; “ban mai”; “Chuyện công viên” “câu hát cũ”… Ngay những giây phút trống trải nhất trong lòng, với anh, tiếng việt và con người nơi đây mang chung một “yếu nghĩa” thực sự thiêng liêng: “Tiếng vững bền như núi/ Dọc thời gian đắp bồi/ Tiếng việt ơi tiếng việt/ Lớn lên từ cánh nôi”; “Đảo thiêng - đất thấm linh hồn/ Lá cây ngọn cỏ mãi còn biếc xanh/ Thơ xin thắp nén tâm lành/ Khấn mong hương khói ru lành nỗi đau”;

Cũng với chính tác giả ý thức quan niệm của con người còn là một triết lý sống thực hơn hết.  Đó là lối sống không xa đời, không trách cứ, hờn hận, gần với người, hòa vào thiên nhiên, vui với kỉ niệm, yên với niềm tin và hi vọng, bằng lòng với những “nhỏ nhoi”,... những “lối nhỏ ngập ngừng yêu thương”, để tích hợp diệu nghĩa, để biểu đạt lương duyên: “Tứ như vốc hạt tình gieo xuống/ Mảnh đất hồn ta chữ lặng chờ/ Ngày như giấy trắng, đêm như mực/ Ngọn bút khơi mầm những luống thơ.”

Tập thơ này là một thế giới “Mùa xưa”, trong đó, “Giấc mơ trưa” là sợi tơ, nối kết với các ảnh tượng kí ức khác thành một khối thống nhất gọi tên “Thời nắng xanh”. Lắng nghe chăm chú tiếng nói bên trong, dựa vào sự tinh tế nơi mỹ cảm, nhà thơ bình tĩnh chuyển tải tất cả những trạng thái đời sống đã qua thành những hoài mộng trữ tình, những sắc tính tâm linh đầy mơ mộng mà sâu sắc: “Anh bắt gặp vòm thông em trẻ lại/ Suối sông thấm đẫm mưa hè”. Và hệ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trở thành thủ pháp nghệ thuật xuyên suốt làm nên tiếng nói nội cảm thầm thỉ, rầm rì, bất tận…Làm nên cái rộng sâu miên viễn, nâng tầm giá trị của tiếng ta. Đó là một sự đối thoại không ngừng của người đàn ông với số phận của mình, niềm tin của mình, nỗi hoài vọng của đời mình. Những “Giấc mơ trưa” về một thời ấy đã đánh thức con người biết thực hành yêu thương, trân trọng từng khoảnh khắc cuộc sống như “Nắng mưa thấm tiếng oa oa đầu đời”.

Bước tới hiện đại từ “Thời nắng xanh”, ta đã nhận diện ra gương mặt thơ của Trương Nam Hương trong bức tranh đời sống hôm nay – tính can dự để làm điểm tựa tinh thần cho một thế hệ thêm tươi trẻ. Rồi ai cũng sẽ thấy mình đôi lúc “Hình như gió/ Ngược tìm năm tháng ấy/ Hát rông dài hoa bất tử ơi”. Ai mạnh mẽ, ai ưu uất tới nhường nào cũng cần được trốn vùi ít nhất một lần “Trong im lặng biếc xanh của cỏ”

Phải chăng, ở sâu thẳm của bất an lẫn tĩnh tại, thanh âm là thứ ta bắt nhạy nhất “Lăng mà im - Động mà im”; “Nghe hư vô cả trăm năm kiếp người”. “Thời nắng xanh” rỏ rỉ ước mơ thật thấm thía, bao dung… Giữa tinh thần sáng tạo nhẹ nhàng, thấm lắng và những thi cảm mang cảm thức nặng sâu ân nghĩa cùng thi liệu là chính những thăng giáng của sự đời chung – riêng nơi người thơ, mà cụ thể là những điều từng tồn tại đẹp đẽ của thời xa vắng. Ấy chính là nét độc đáo tạo nên phong cách thơ của tác giả. Tất nhiên, hướng về quá khứ đã ngủ yên không có nghĩa chỉ truyền thừa những giá trị đã đóng khung trong địa hạt văn học, nghệ thuật. Thực chất, đó cũng là một quá trình sáng tạo liên tục, nằm trong dòng vận động kiếm tìm cái mới của người nghệ sĩ nhằm nhìn thấy hoặc khơi mạch nguồn giá trị thẩm mỹ cho luôn luôn tiếp diễn. Vừa mang hơi thở nguồn cội vừa mang tính thời đại. Và gia đình, hương thôn, miền cổ tích, áo trắng một thời, lối cỏ xanh… nơi thời/ không nghệ thuật giống như chốn cư ngụ nương náu bình yên – thánh địa cuối cùng của nhân cách được chuyển thể thành thơ trong “Thời nắng xanh”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm