TIN TỨC

Phạm Trung Tín và đường chân trời

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-11 07:38:32
mail facebook google pos stwis
2198 lượt xem

ĐẶNG NGUYỆT ANH

Một buổi sáng trời mưa gió, cách đây vài tuần. Phạm Trung Tín phóng xe máy đến nhà tôi. Tôi vội hỏi “Có việc gì vậy”. “ Dạ, em đã hẹn với chị rồi, em phải đến. Tên em là Tín mà”. Thì ra, một cái tên định mệnh! Tín là phải giữ chữ Tín với mọi người.

Tuổi trẻ gặp thời binh lửa, anh đã cầm súng ra đi, cùng với lớp trai lên đường cứu nước. Rời binh nghiệp, anh tiếp tục học hành. Kết quả: hai bằng cử nhân triết học và kinh tế. Đây là sự phấn đấu đáng ghi nhận.

Là một người sống chân thật, mộc mạc và nhân hậu ”Răn mình nét ở nết ăn” sao cho phải Đạo. “Buộc đời bằng sợi văn chương”. Đường chân trời là tập thơ thứ 5 của anh. Năm tập thơ là sự cố gắng, đam mê, cần mẫn. Nhất là thời buổi phải bỏ tiền túi ra mà in thơ ! Anh vẫn hiểu “Đời Văn đôi lúc trái ngang”. Nhớ đến thi tài, mệnh bạc của Thi sỹ họ Hàn: ”Trường thơ loạn giữa đất trời. Từng câu máu ứa cho đời tinh hoa. Tiếng đau còn vọng Quy hòa. Người đà thiên cổ nhạt nhòa hồn trăng

Thật thà tử tế mà vấp phải nghiệp phận éo le. Cuộc sống đang bình yên, ấm áp thì người vợ hiền bỏ anh mà đi. Để lại hai đứa con nhỏ. Từ nay gà trống nuôi con . “Em đi đã mấy mùa rồi. Tháng ngày vỡ nửa, đứng ngồi ngổn ngang... Em đi bỏ lại nắng mưa. Gian truân anh giữa gió lùa ngày đông”. Đây là bài thơ anh viết nhân ngày giỗ vợ thứ 15. Một bài khác viết ngày giỗ vợ thứ 18. Thật cảm thương “Con mình chưa kịp trưởng thành. Như hai chim sáo lạc cành cội xa”! Hai con dại không có mẹ, anh đang phải ấp iu, anh càng thương cho những cảnh đời hẩm hiu côi cút: Em Diện “Đã tàn tật lại mồ côi. Nỗi đau cứ thế nhân đôi thành đời”. Không cha mẹ, nương nhờ hàng xóm, sớm tối lần hồi rau cháo, đói rét co ro trên chiếc xe lăn, đầu đường cuối chợ: “Sinh ra ai cũng kiếp người. Mà sao lận đận khóc cười là em?” Sự cảm thông của một tấm lòng yêu thương.

Phạm Trung Tín sống mộc mạc, chân tình. Nửa đời sau anh lui về vui thú điền viên. Sống hiền bên sông ”ngõ nhà hoa trái trổ bông”, có tiếng gà trưa, tiếng chó sủa, có câu thơ thấm đẫm nắng mưa , cơm canh đạm bạc, đêm thừa trăng sao. Tâm hồn nhà thơ đã hòa quyện với thiên nhiên, vạn vật... Và rất đúng cách của người quê, bằng một câu thơ giản dị, mà hay, mà khó viết, chỉ người gắn bó máu thịt với làng quê đồng ruộng, mới viết được câu như thế này: “Lòng như da thịt ruộng đồng”. Tôi chưa bao giờ nghe ruộng đồng có “da thịt”. Rất lạ !

Sinh nhật lần thứ 63, Phạm Trung Tín viết bài thơ như bộc bạch tâm tư : “Điền viên mộng mị bình thường. Hiền cư cây cỏ khiêm nhường bên sông. Rượu thơ tri ngộ đôi dòng. Viết câu gian khó vào trong tuổi mình”. Thật điềm tĩnh, chín chắn, bình thản chấp nhận gian khó vì đó là quy luật của cuộc đời!

Sống hiền rồi cũng gặp lành! Trời bắt anh phải chia lìa người vợ trước. Nhưng đã bù đắp, đưa đến cho anh người phụ nữ thứ hai, cũng hiền hậu nết na. Một người trẻ tuổi, trước là chú cháu, sau thành anh em, biết gánh vác, biết cảm thông, chia sẻ : “Tuổi chênh tôi chút ngậm ngùi. Rộng lòng em lại ngọt bùi sẻ chia!” Và anh thật sự hạnh phúc trong tình yêu mới : “Cơm canh đạm bạc tập tàng cá ao. Tựa chiều nhè nhẹ mây cao. Tựa em tôi lại nghêu ngao đời mình”. Chứng tỏ cuộc sống đang rất nhẹ nhàng, tinh thần sảng khoái. Câu thơ đưa lại cho người đọc cảm giác thoải mái, dễ chịu. Từ “nghêu ngao” để đây thật hay !

Sinh nhật bạn thơ, bạn đồng niên Trần Trí Thông, anh có thơ tặng bạn nhưng cũng là nói với mình, nâng ly để “chạm tuổi già”. Cả hai đều đã nụ cười chân chim, nhưng tâm hồn bình yên, cuộc đời vẫn vui dù có gian nan vất vả: “Sáu tư tuổi lắm trật trầy mà vui”. Vậy là mừng lắm, vì người thơ đôi khi không lý giải được, buồn vui vô cớ như Thi sỹ Xuân Diệu ngày trước “Tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồn”. Ở đây nhà thơ: “Tự mình làm một bơ vơ”, rồi than thở “Sao tôi hụt hẫng thế này”. Bởi cái thói đa cảm của người thơ ý mà. Anh thương cho nàng Kiều : “Hồng nhan chi để úa nhàu tuổi hoa”. Nghẹn ngào trước nỗi đau ứa máu của Hàn Mặc Tử. Rồi lại lênh đênh vương víu với các em gái ở chợ nổi miền tây bao la sông nước: “Bồng bềnh điệu lý xôn xao. Con sông cứ thế chảy vào lòng tôi...Khôn tôi thành kẻ dại khờ. Chợ tan rồi cứ thẫn thờ với sông...”. Đúng là người thơ đa cảm! Chí ít cũng không phải một lần, nhà thơ thẫn thờ với sông. Mà thời trẻ, khi con tim mới biết rung cảm cho tình yêu đầu đời, anh đã lỡ chuyến Đò tình, để cả đời nuối tiếc: “Ngày xưa đau nỗi muộn màng.Ta vừa chạm bến người sang sông rồi”. Lỡ đò một chuyến, để đau một đời. Không chỉ lỡ đò, đời còn lắm truân chuyên, dâu bể: “Đường chân trời - nỗi bể dâu...Chỉ thơ lưu dấu nỗi đau của đời”.

Người thơ Phạm Trung Tín lắm tơ vương, nhiều dan díu. Gặp tà áo bà ba của em gái miền sông nước Nam Bộ là anh đã đứng ngồi không yên. Lên Tây nguyên, gặp cô gái Banar: “Hồn nhiên như núi với đồi. Lối mòn sỏi đá thương đôi chân trần”, không biết rừng núi bồi hồi hay lòng anh bồi hồi: “Mai này phố thị tôi ngồi nhớ em!”. Lòng người vương vấn, nhìn vạn vật xung quanh cũng thấy vấn vương, quyến luyến. “Bắt đền díu dan” là bài thơ mang tâm trạng như thế : “Gió ngồi dan díu hương mai. Trộm nhìn vườn vắng - hình hài bão giông. Nét trời nên những đường cong. Lưng ong thắt lại một vòng thiên thai”. Câu thơ giầu hình tượng, gây ấn tượng. Câu kết của bài thơ cho chúng ta thấy rằng : sẽ có nhiều anh chàng phải thao thức vì cái bệnh díu dan này : “Hết ngày rồi lại sang đêm. Ai đem thương nhớ bắt đền díu dan”

Là người sống cởi mở, chân tình, nhà thơ Phạm Trung Tín có nhiều bạn bè, nhất là bạn văn chương. Họ biết trân trọng, yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ nhau. Anh cũng có nhiều thơ tặng bạn : Huynh có Giang Lam, Lưu Trần Đại, muội có Trần Mai Hường, ngang tầm phải lứa có Trần Trí Thông, Đinh Thường, Phạm Hữu Bình và còn nhiều nữa vân vân. Thật đáng quý !

Con người ta, thời trẻ thường tung hoành ngang dọc. Sau những thác gềnh, từng trải, được thua. Đến xế chiều, chựng lại. Trẻ hướng ngoại, già hướng nội. Phạm Trung Tín đã đến tuổi hướng nội. Lòng hướng về nguồn cội, về cố hương. Trong tất cả sự “hướng” ấy, đặc biệt anh hướng về MẸ GIÀ. Nhà thơ có chùm thơ viết về Mẹ rất cảm động: Về bên Mẹ, Bình yên bên Mẹ, Về thăm Mẹ, Tâm nhang con nguyện... Những câu thơ viết về Mẹ rất thật, rất thương : “Tết này sang tuổi chín ba. Mẹ như than rạ, chuối già chín cây”. Than rạ mau tàn, chuối chín cây dễ rụng! Mừng cho tác giả còn Mẹ già đã Đại thọ. Quý trọng phẩm chất tốt đẹp của người con trung hiếu: “Thảo thơm phục dưỡng từng ngày”. Câu thơ là tấm lòng của tác giả. Anh thương Mẹ bước chân chậm chạp bên thềm và lo lắng, theo dõi từng miếng ăn, giấc ngủ : “Ăn thường nghẹn nuốt khó trôi. Ngủ không tròn giấc, khuyết bồi nửa đêm”. Không phải người con nào cũng làm được điều này. Cảm phục tấm lòng hiếu thảo .

Đi cho thỏa chí trai “Chân con lang bạt mọi miền. Ba lô chật ních nỗi riêng quê nhà”, thương Mẹ già như thân cò lặn lội, cõng nắng triền đê , lúc nào cũng đỏ mắt ngóng con. Con giờ tóc đã pha sương: “Hôm nay về lại quê nhà. Sà vào lòng Mẹ con đà tóc sương. Mà nghe thơ ấu lạ thường. Đâu đây giây phút thiên đường đời con !”.

Hạnh phúc biết bao nhiêu khi tóc đã bạc được sà vào lòng Mẹ, đúng là giây phút thiên đường hiếm hoi.

Bây giờ đã nên ông nên bà: «Nằm nghe lòng Mẹ bao la. Con càng nhỏ bé hơn là ngày xưa !”. Càng thấm thía, càng thương Mẹ: “Chiều chiều tựa cửa ngó ra. Ngổn ngang bao nỗi- mắt già lại cay!”. Phạm Trung Tín đã tròn chữ Hiếu. Nhưng với con cái không bao giờ cảm thấy đã báo hiếu đủ đầy. Mừng anh còn Mẹ già để phụng dưỡng. Cầu chúc cho Cụ Bà mạnh khỏe, để anh còn được chăm chút, nâng niu đến ngoại Bách niên !

Người ta thường nói “Thơ là người” với nhà thơ Phạm Trung Tín thì đúng vậy.

Đọc hết Đường chân trời của anh, ta gặp một trái tim nhân hậu. Từng cảm xúc chân thật. Không phô trương, không vuốt ve phóng đại. Câu chữ giản dị, mộc mạc. Nó chính là cuộc đời của tác giả. Dù có khó khăn, vất vả nhưng vẫn điềm tĩnh, vững vàng, giữ được tình yêu, niềm đam mê trọn vẹn với THƠ.

Rất vui mừng, xin trân trọng giới thiệu với các bạn tập thơ Đường chân trời của Phạm Trung Tín

Sài Gòn một ngày cuối Thu Kỷ Hợi (10- 2019)
ĐNA.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm