TIN TỨC

Phan Thị Thanh Nhàn nửa thế kỷ vấn vương “Hương Thầm”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-06-23 10:39:47
mail facebook google pos stwis
2042 lượt xem

Lê Thiếu Nhơn

 Tên tuổi thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn gắn liền với bài thơ “Hương thầm” phổ nhạc thành một ca khúc nổi tiếng. Bài thơ “Hương thầm” được thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn sáng tác năm 1969, đến nay đã tròn nửa thế kỷ. Nhiều thế hệ đã hát “Hương thầm” với niềm mến mộ dành cho thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn. Thế nhưng, công bằng mà nói, thơ Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ có “Hương thầm”!

Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn

Bây giờ, gặp thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn ngoài đời, ít ai nghĩ rằng chị đã qua tuổi “cổ lai hy” từ lâu. Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn có nét vui vẻ, hòa đồng, trẻ trung và điệu đà của riêng chị. Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn sinh năm 1943 tại mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi mà tuổi 30 chị đã viết bài thơ dài “Thành phố tôi yêu” với những nghẹn ngào về cuộc sống thơ ấu bên Đê La Thành “Lá cải già mẹ không nỡ bỏ đi/ Vại dưa mặn suốt thời thơ bé/ Guốc không có, chân lau vào chổi rễ/ Chị lớn rồi, áo chật vá nhường em” và những câu hăng say cổ vũ phát triển đô thị “Tay Hà Nội vươn dài theo quy hoạch/ Nao nức nghĩ về thành phố tương lai”. Sau khi tốt nghiệp Khoa Báo chí – Trường Tuyên giáo Trung ương, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn từng làm phóng viên báo Hà Nội Mới rồi chuyển sang làm Phó Tổng Biên tập báo Người Hà Nội. Nói chung, về sự cống hiến và sự thành đạt giữa đời thường, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn không hề thua kém ai. Thế nhưng, điều tạo ra đột phá trong số phận của chị, vừa nâng đỡ lại vừa bất trắc, chính là thơ.

Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn bắt đầu xuất hiện trong làng thơ bằng ấn tượng ở cuộc thi thơ năm 1969 – 1970 của báo Văn Nghệ. Với hai bài “Hương thầm” và “Xóm đê”, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn đã giành được giải nhì cùng với Vương Anh và Bế Kiến Quốc (giải nhất thuộc về Phạm Tiến Duật). Cùng sánh vai nhau thuở khởi nghiệp của thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn, nhưng những câu thơ trong bài thơ “Xóm đê” như “Chuyện cũ xóm đê để lại nếp nhăn trên trán mẹ/ Nhưng chúng tôi lớp trẻ vô tư/ Cứ lớn lên rộn rã ước mơ/ Có lúc quên ngoái nhìn quá khứ” không được mấy ai nhớ như bài thơ “Hương thầm”. Mang bóng dáng một câu chuyện lãng mạn, bài thơ “Hương thầm” miên man kỷ niệm: “Cửa sổ hai nhà cuối phố/ Không hiểu vì sao không khép bao giờ/ Đôi bạn ngày xưa học cùng một lớp/ Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa/ Giấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm/ Bên ấy có người ngày mai ra trận/ Họ ngồi im không biết nói năng chi/ Mắt chợt tìm nhau rồi lại quay đi/ Nào ai đã một lần dám nói/ Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối/ Anh không dám xin/ Cô gái chẳng dám trao/ Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao/ Không dấu được cứ bay dịu nhẹ/ Cô gái như chùm hoa lặng lẽ/ Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu/ (Anh vô tình anh chẳng biết điều/ Tôi đã đến với anh rồi đấy…)/ Rồi theo từng hơi thở của anh/ Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực/ Anh lên đường/ Hương thơm sẽ theo đi khắp/ Họ chia tay/ Vẫn chẳng nói điều gì/ Mà hương thầm thơm mãi bước người đi”.

Tuyển tập Phan Thị Thanh Nhàn

Năm 1984, tức là 15 năm sau khi bài thơ “Hương thầm” ra mắt, nhạc sĩ Vũ Hoàng đã phổ nhạc thành một ca khúc cùng tên. Phải thừa nhận, nhạc sĩ Vũ Hoàng đã sử dụng hầu hết những câu thơ quan trọng của bài thơ để làm ca khúc, nhưng lại vô tình tạo nên một…sự lệch lạc so với nguyên tác. Bài thơ “Hương thầm” viết “cửa số hai nhà cuối phố, không hiểu vì sao không khép bao giờ”, còn ca khúc thì “khung cửa sổ hai nhà cuối phố, chẳng hiểu vì sao không khép bao giờ”. Có thể do phục vụ giai điệu và tiết tấu, phải thêm chữ “khung”, nhưng ngẫm nghĩ thì thấy rất buồn cười. Cửa sổ mới có khả năng khép hoặc mở, còn cái khung của cửa sổ thì phải cố định. Đã là “khung cửa sổ” thì vĩnh viễn “không khép bao giờ”, chứ đừng thắc mắc “vì sao”. Vậy mà, kỳ lạ thay, “khung cửa sổ” vẫn hát véo von suốt 35 năm qua.
Dù muốn dù không, vẫn có thể khẳng định, chỉ cần bài thơ “Hương thầm” cũng đủ lưu danh thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn vào lòng công chúng. Thế nhưng, thơ cũng có duyên có kiếp như người, có những bài thơ hay nhưng không thể vang dội bằng bài thơ được phổ nhạc. Ở trường hợp thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn xin lấy ví dụ bài thơ “Con đường” mà chị viết năm 20 tuổi: “Nếu anh đi với người yêu/ Chỉ mong anh nhớ một điều nhỏ thôi/ Con đường ta đã dạo chơi/ Xin đừng đi với một người khác em/ Hàng cây nay đã lớn lên/ Vươn cành để lá êm đềm chạm nhau/ Hai ta không biết vì đâu/ Hai con đường rẽ ra xa nhau hoài/ Nếu cùng người mới dạo chơi/ Xin anh tránh nẻo đường vui ban đầu”. Thần thái của bài thơ “Con đường” nằm hết ở bốn câu đầu, nhưng nếu không có sự bâng quơ lý giải ở sáu câu sau thì lại mất đi cái tính ương gàn nhiễu sự của tuổi trẻ và tính đa đoan nũng nịu của thiếu nữ. Cũng với kiểu suy tư bất trắc ấy, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn cũng có hai câu thơ khiến nhiều người vội vàng hẹn hò và sốt ruột kết hôn bỗng dưng giật mình: “Người tôi yêu đã đi xa/ Người yêu tôi lại ở nhà, chán ghê!”.

Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn từng có những ngày vợ chồng ấm áp trong căn hộ tập thể trên cao mỗi ngày mơ màng nhìn xuống hồ Hoàn Kiếm với thi sĩ Thi Nhị. Đáng tiếc, hạnh phúc ngắn chẳng tày gang. Năm 1979, khi thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn đi thực tế sáng tác ở Nha Trang thì thi sĩ Thi Nhị mất đột ngột ở Hà Nội. Thời ấy, máy bay đâu có dễ dàng như hôm nay, khi người vợ trở về nhà thì thân nhân đã đưa người chồng ra nghĩa trang. Nỗi đau giống như một vết thương trong lòng thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn, thỉnh thoảng lại cồn cào trên trang thơ: “Ước gì gặp lại anh/ Dù chỉ trong phút cuối/ Để nói một lời thôi/ Em đã yêu anh nhất/ Ước gì giọt nước mắt/ Thấm được vào môi anh/ Để trong giờ phút cuối/ Anh biết em ở gần”. Sự bơ vơ ở thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ qua cảm nhận “Bữa ăn vắng một người/ Tìm đâu ra mùi vị/ Khói cơm cay mắt thế/ Bây giờ em mới hay/ Hun hút hai hàng cây/ Gió thổi dài ngơ ngác/ Thành phố vắng một người/ Đường không ai dạo chơi” mà còn qua hành động “Một mình tìm đến cùng anh/ Nghĩa trang chiều muộn lặng thinh gót giày/ Khói nhang nhè nhẹ thẳng bay/ Nối em vào cõi khói mây nhạt nhòa”.

Mất chồng, một mình nuôi con, một mình dựng nhà, một mình làm thơ, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn dựa vào trái tim yếu mềm mà đi qua những ngày âm u. Góa bụa ở tuổi 36 là một cảm giác kinh khủng, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn hiểu như vậy, và không khép cửa bao nhiêu tơ vương đến với mình tình cờ hoặc toan tính: “Bất ngờ ai bỗng gọi em/ Cho tôi bối rối lặng im mỉm cười”. Thậm chí, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn bẽ bàng “Rồi có thể vợ và con ríu rít/ Anh nhẹ nhàng quên hết chuyện đôi ta/ Anh hối hả đón cuộc đời hạnh phúc/ Tôi bàng hoàng mãi chẳng hiểu ra” rồi chấp nhận “Và bây giờ người ấy đã ra đi/ Tôi bỗng thấy đàn ông xa lạ quá/ Hình như họ có chút gì hoang dã/ Có chút gì tàn nhẫn vô tâm”. Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn lấy sự hồn nhiên để an ủi sự cam chịu. Chị dùng đôi mắt độ lượng để tạm biệt những cái cũ, từ tạm biệt “Người yêu cũ” quay lưng: “Như giếng cạn giấu sao trời dưới đáy/ Anh mãi là kỷ niệm thuở ngây thơ/ Hãy thơm phức như trái cây chờ hái/ Đừng bắt em uống cạn chén trà thô”, đến tạm biệt “Những bài thơ cũ” ngậm ngùi: “Với tôi thuở ấy thiêng liêng/ Câu thơ đập giữa nhịp tim bất ngờ/ Nay còn ai được như xưa/ Còn ai xứng với bài thơ tôi cầm” và tạm biệt cả “Nhà cũ” bồi hồi ký ức: “Căn nhà đã nhốt/ Những ngày trong veo/ Mùa xuân còn mãi/ Nơi mình buông neo”. Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn bộc bạch: “Tôi là người chỉ nhìn cái đẹp, cái đáng yêu của đời sống và mỗi con người. Trong tình yêu, tôi thường nói là tôi làm thơ thất tình là chính. Nhưng chính những người mà tôi đã từng yêu và đã từng thất vọng, tôi vẫn giữ những kỷ niệm đẹp khi họ chưa bị lộ những điểm yếu mà sau này mình mới biết, đã khiến mình chán nản và từ bỏ. Nhưng cái gì đẹp thì tôi còn lưu giữ mãi. Tôi cảm ơn tất cả các chàng đã có lúc khiến tôi xúc động làm được thơ ghi lại tình cảm chân thành của tôi dành cho họ. Tôi đã có những bài thơ được bạn bè và người đọc chia sẻ, yêu thích. Đó là nhờ tôi đã… yêu nhầm khi nghĩ là họ đáng yêu. Thế là quá “lãi” với tôi rồi!”.

Tuy nhiên, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ có thơ tình. Thơ về sản xuất hoặc thơ về thời sự cũng được chị viết khá khéo léo. Chị nhờ hai câu lục bát cứu bài thơ “Hội cấy mùa xuân” khỏi không khí thơ phong trào “Đừng khen làm cuống chân em/ Đừng khen kẻo mạ cắm nghiêng bây giờ”. Chị nhờ bốn câu kết mà cứu bài thơ “Chân dung người chiến thắng” viết về ngày 30-4-1975 khỏi không khí minh họa “Tôi trở về nhà với ngọn đèn con/ Viết lại xóa bài thơ không đủ ý/ Đành ghi chép vào sổ tay thầm nghĩ/ Những ngày này tự nó đã là thơ”. Do đó, khi day dứt, thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn cũng có những câu thơ nhức nhối: “Có đôi lúc buồ/ Tôi đã định tự tử/ Sống làm chi khi bè bạn bon chen/ Cơ quan quanh năm đấu đá/ Sống làm chi khi người yêu thành người lạ/ Ngày như đêm một mình/ Sống làm chi lương ba cọc ba đồng/ Viết báo làm thơ kiếm từng xu vẫn loay hoay không đủ/ Sống làm chi khi mọi tượng thần đều sụp đổ/ Người ta tin yêu lại hóa tầm thường/ Vậy mà tôi vẫn sống nhơn nhơn/ Vẫn cười nói họp hành trưng diện/ Vẫn hy vọng kiếm được một ông chồng đáng mến (một người đã thông minh lại giàu)/ Và tôi hiểu ra trong thăm thẳm niềm đau/ Tôi vẫn còn yêu đời quá”.

Thi sĩ Phan Thị Thanh Nhàn được trao Giải thưởng Nhà nước năm 2007. Chị được độc giả chào đón khắp nơi với bài thơ “Hương thầm”, nhưng chị cũng gửi cho họ những băn khoăn của một người làm thơ biết đắn đo ân nghĩa, khi đến “Lam Kinh” nhìn ngắm di tích: “Thăm đất cũ một lần thôi, chợt thức/ Ai bây giờ xứng đáng với vua Lê?” và khi viết hộ người xa xứ về ấn tượng “Tổ quốc” sâu bền: “Mẹ Việt Nam gầy bé/ Mẹ Việt Nam kiên cường/ Suốt một đời lận đận/ Mà con giờ tha hương”./.

L.T.N

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm