TIN TỨC

Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-12 16:45:25
mail facebook google pos stwis
416 lượt xem

Một bài viết thấm đẫm tình thân của Tuấn Trần – người trẻ viết về nhà thơ Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.

TUẤN TRẦN

(Suy ngẫm về hành trình tồn tại của thơ trong đồ hình thẩm mỹ cũng như của chữ “thương” trong một đời người tình nghĩa)

Cuộc đời ngắn chẳng đầy tấc, cuộc thi ca cũng chỉ là phô bày chớp mắt cho thế là cùng, rồi đi vào ngăn kéo và bị đóng đập dứt khoát. Thế nhưng, nếu đã có “căn nguyên” thì hào quang sẽ một đôi lần nữa được sục sạo và tỏa sáng từ những xếp nếp, gói ghém. Gã thời gian “mặt sắt đen sì” kia! đôi khi cũng phải “ngây ra vì tình” và đồng ý lưu lại nơi ngõ nẻo vào dĩ vãng hồn thơ của người con gái “Sông Ninh” từng như “huyền thoại”...

Thiết lập hẳn một không gian tinh thần trong thuần sâu lắng, điều mà thi ca bây dừ khó tìm được. Bởi Đặng Nguyệt Anh đã sống như “Hoa cỏ thương nhau/ Đến nghẹn ngào”. Đã “hồn nhiên” đi vào cuộc chiến và tình yêu… Đến bây giờ trên gương mặt, trong đáy mắt của “Ngoại” vẫn giữ được vẻ đẹp trong trẻo, thuần hậu mà đã một thời làm cho bao người trai “… cả đời thương nhớ gỡ không ra”

Đêm trăng chiến hào đó mở ra không hoang đường, siêu nhiên, mộng mỵ, ma ảo như những đêm trăng đã từng thấy trong cốt lõi văn chương nước nhà. Giữa cái cam go quyết liệt trong bối cảnh tử chiến, bỗng có một góc nào đó ta lại thấy “say miền bão lửa” dẫu “Phận gái như cánh chuồn kim”…

Vẻ đẹp của sự thiêng liêng trong những thanh âm được “chân thực hóa”, đó là tinh thần thẩm mỹ tự thân nơi những dòng nhật kí tình thương thường hằng - được bắt dẫn bởi lòng ái quốc: “Biết rằng bom đạn gian nan/ Xin cha mẹ, con vào Nam tìm chồng/ Mưa chiều giăng trắng dòng sông/ Trũng sâu mắt mẹ lưng tròng lệ xa”. Nó khác xa lạ kì với cái “thô thiển hóa” trong những tiếng thơ thiếu sinh khí sự thật nội tại, đang diễn ra hôm nay.

Dẫu trong hiện thực khắc nghiệt, hành trình của thiếu phụ là xốc liệt, kiên gan, thì nơi trái tim - thể hiện qua hồn thơ vẫn “tiêu tao yểu điệu” như “Trăng liềm lơ lửng giữa trời/ Cho em đưa võng một thời Trường Sơn”. Đó là thứ thơ được chưng cất từ một trái tim yêu thương chín độ trọn vẹn và luôn bình tĩnh trước tình yêu cùng lý tưởng để “gánh ghì” số phận chung/ riêng - sống đâu chỉ cho khát vọng trong mình, còn vì một nỗi nặng lòng “sẻ chia” với thế gian.

Vì lẽ đó, thơ Đặng Nguyệt Anh, chủ đạo vẫn là những vần mang sắc thái – KHÔNG ĐA ĐOAN và cũng nhiều cái “không” khác: Không đay đả, không khắc nghiệt, không cười cợt, không nhiều triết lý nhưng cứ thế thầm thì sâu sắc vào tai tôi: Rằng cuộc đời thế đó “cháu” tôi ơi, nhiều điều đáng chán nhưng ngay cả lúc đau, trong máu me và bạo lực cũng phải để lại cho đời những điều thiện đẹp - Trường Sơn rùng rùng đất đá/ Vẫn mơ phương trời lạ/ Khát cháy lòng một ban mai”. Bởi “Mai rồi/ Nằm dưới cỏ khâu/ Chỉ mang theo được/ Nỗi đau xuống mồ”.

Trong cơn lửa chiến tranh hay cơn bão đời người đa sự truân chuyên, tình yêu đã lặng lẽ làm dịu đi/ cho bớt đau thương. Có thể ta chẳng còn nhận ra mất mát vì nó luôn mang sắc màu của mùa thu thanh, yên ả, đã rất nhiều lần dáng nét “thu sang” gợi tình trong thơ Chị - Gửi đi một chút heo may/ Để bên ấy biết bên này thu sang/ Cho/ em đỏ chút lá bàng/ Cho em xanh chút mơ màng trời xanh/ Cho em chia nỗi buồn anh/ Để con nhện cứ buông mành giăng tơ.../ Bờ rào con sáo ngẩn ngơ/ Có bông cúc dại đang chờ thu sang!”

Khi người cầm bút, dùng căn nguyên của sự thật - những trải nghiệm sống từng hết mình, mạnh mẽ để viết, chắc hẳn sẽ không mất quá nhiều năng lượng – những cơn oằn oại sáng tạo thai sinh. Mà đứa con tinh thần lại dễ dàng đi vào đời sống và kéo dài khả thi hơn lời hẹn về cuộc đối thoại với thế hệ tương lai… Thơ của “Ngoại” chí ít đã nhận được sự “khoan hồng” của thời gian. Để hôm nay nó nằm trên bàn tay “cháu” - một người trẻ chưa từng được nghe “tiếng hát át tiếng bom”, chưa từng được sống cho cùng tử tế và có thể chưa từng biết yêu (yêu thương) mà vẫn hiểu - vỡ đôi điều.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm