TIN TỨC

Trái tim đập nhịp Cửu Long Giang

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-02-26 10:31:56
mail facebook google pos stwis
1172 lượt xem

Tác phẩm đoạt Giải thưởng dành cho Tác giả trẻ Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022

TRẦN MAI HƯỜNG

Chín nhánh da vàng là tác phẩm thứ tư của nhà thơ Khét (Trần Đức Tín), cũng là tác phẩm đạt Giải thưởng tác giả trẻ năm 2022 của Hội Nhà văn Việt Nam. Ở đây ta bắt gặp một giọng thơ khá lạ, đầy chiêm nghiệm, bứt phá và độc đáo, một nhà thơ rất nỗ lực trong hành trình chữ nghĩa để kết tinh và phát sáng.

Mở bài thơ đầu đọc câu kết như một câu hỏi lớn: “Điều giỏi nhất của giống loài mình là làm đau người khác/ phải không tôi…. Phải không tôi, phải không chúng ta, và câu hỏi ấy đã dẫn tôi đi chậm và nhiều phút nghỉ trong miên man Chín nhánh da vàng... Trần Đức Tín, bằng sự nhạy cảm thiên bẩm, từ tấm lòng yêu quê thổn thức đến cuộc mưu sinh nhọc nhằn giữa bao la thiên nhiên nơi anh đã sinh ra và lớn lên, trên sông nước và nắng gió Miền Tây sẵn lòng rộng mở, đã đưa Khét về một vùng mới lạ của thơ... Nơi những kẻ mạnh luôn tìm mọi cách để lấn át kẻ yếu thế hơn mình: “Cũng đừng hỏi tôi đi đâu trong ngày tháng bỏ quê/ chân tôi bỏng rát giữa lòng người chật hẹp/ trăng đêm này đã có từ thiên thu trăng trước/ chỉ lòng ta thay đổi” - (Giống loài).

Thơ Trần Đức Tín canh cánh một nỗi lòng lo lắng cho quê hương, thổn thức cùng xứ sở và đồng bào. Một Khét sâu sắc, một Trần Đức Tín thâm trầm, những câu hỏi ngàn năm chưa có lời giải đáp nhưng lại chẳng có ẩn số bao giờ... Chàng trai tự nhận là kẻ tha phương song chưa một phút rời bỏ xứ sở dấu yêu đầy bất ổn và nhiều thương đau của mình: “Tôi nhớ Cà Mau - mưa đầu mùa rát mặt trên bùn lầy ảm đạm xứ u minh tuổi thơ tôi nguệch ngoạc vết ngang những con còng heo hút gió bông tràm réo gọi” - (Tôi với Cà Mau cùng nhịp thở long đong).

Trong hành trình nhọc nhằn chữ nghĩa, Trần Đức Tín đã đi khá xa trên con đường thi ca của riêng mình. Trong ngút ngàn thơ ca hiện đại, không dễ để có một giọng điệu riêng, sự khổ luyện không đủ, tài năng thiên phú là đương nhiên, người thơ còn cần phải có sự nhạy cảm của một tấm lòng, một tâm hồn, một nỗi đau hướng về cội nguồn, xứ sở quê hương và con người..., dường như Khét đang có được điều đó. Những câu thơ cứ lấp lánh trên cuộc rong chơi kiếm tìm mênh mông ấy: “ngủ hết đêm nay với vàm cỏ/ thương những bóng ma trôi trên sông/có khi/ ta ngừng thở để sống/ có khi/ ta tự sinh ra mình” - (Ngủ hết đêm nay với Vàm Cỏ).

Có một điều gì đó mênh mang diệu vợi và sâu thẳm trong câu thơ như một triết lý mà không phải vậy, chỉ có thể là nỗi đau quên mình để hướng tới lòng nhân, hướng về lẽ phải trên đời: “loài người sinh ra/ để lẩn trốn/ nghệ thuật sinh ra/ để đào thoát/ và tôi ngồi đây ăn bóng mình/ còn một mùa đau gieo vào đất/ mấy ngàn năm chưa ai đến gặt” - (Khi ta viết chữ).

Những ẩn ức và cả sự mơ hồ bất chợt đã tạo nên một Trần Đức Tín mang dáng dấp điêu linh, siêu thực và luận lý trong những nét phác thảo vẫn cứ rõ ràng. Anh làm thơ, viết thơ như một “bản mệnh” đất trời sai khiến; giữa đúng sai, thực ảo, vui buồn, sướng khổ, khi chân lý cứ luôn là ảo ảnh ám ảnh phía xa vời. Chữ nghĩa được gieo mầm như vốn vậy, công phu “tỉa cành bắt sâu” không phải là sở trường của nhà thơ mang bút danh Khét bởi chất liệu nơi đó dường như đã được “sàng” qua những trải nghiệm đớn đau cùng với quan niệm rõ ràng, thơ không có sai hay đúng. 

Tôi vừa đi vừa thắp lửa / đôi lần/ tôi thấy tôi chết/ để được sống/ bước chân ai đã giẫm lối vào lòng/ đêm nay/ nghe lặng lẽ trổ bông” - (Đi như cỏ).

Chỉ có tiếng lòng từ trong sâu thẳm của lý trí cất lên, không sợ hãi hay lo lắng mơ hồ, người đọc có thể cảm nhận hay hiểu đến bao nhiêu là tùy, nhà thơ đã, đang và chỉ là kẻ truyền dẫn ngôn từ đấy thôi... Một cách để những câu thơ ra đời thật thú vị và thi vị; điều này hình như chỉ có ở nhà thơ trẻ tuổi: “không có cái chết của chánh niệm/ ta từ bi ta hơn nửa đời/ bàn tay lúa nước, da vàng, diều giấy/ mọc vào khoảng trống tổ tiên” - (Chánh niệm).

Ở nhiều bài trong Chín nhánh da vàng, một tư duy ngỡ như mung lung, đa chiều nhưng người đọc vẫn cảm nhận được nỗi lòng cô độc, thiên hướng cội nguồn và tình yêu cuộn chảy tiếc thương của thi sĩ với lịch sử bi hùng của quê hương, đất nước, giống nòi; mà ở nơi đó, sự hùng tráng và bi tráng cứ luân phiên đổi ngôi cho nhau: “trăng quê mình mắc cạn ở sau lưng/ có bụi lục bình trôi vào áo mẹ tôi rồi bật khóc/ chiếc áo màu nâu lặng câm như tràng hạt/ bay ra đồng rồi củi lửa lưng trời/chúng con: bọn bỏ quê/ quê trôi trên đầu/ quê bạc theo tóc/ trong đau đớn kiệt cùng/ trăng gọi mẹ/ bằng một tiếng chuông hoang” - (Trăng quê).

Hiển hiện trong thơ Trần Đức Tín luôn là quê hương với ngàn vạn nỗi niềm, quê hương nhỏ và quê hương lớn cứ là muôn nỗi xót xa. Xót xa cho mình, cho người, cho những thân phận bỏ quê, bỏ xứ sở ra đi bởi những biến động thời cuộc và bởi cả cuộc mưu sinh mệt nhoài áo cơm. Những cuộc ra đi hay lui về đều nhọc nhằn như nhau, thậm chí là cả nước mắt và sự tiễn biệt thương đau: “loài người/ hồi hương giấc mơ/ bằng cách/ di cư nó/.../ một ngày tháng bảy năm hai không hai mốt/ tôi hồi hương giấc mơ/ bằng cách/ vấn khăn tang cho mình” - (Một ngày).

Và, nỗi đau thắt tim từ mấy chục ngàn linh hồn đã bay cùng mây trắng trong đại dịch Covid-19, những cột khói trắng trời thay những dải khăn tang, phải chăng những linh hồn ấy đã nhập vào thơ anh quằn quại trong ngày tưởng niệm những số phận oan khuất ấy: “ngày mười chín tháng mười một/ ngồi đối diện với những con số/ những con số nhuộm trắng thành phố quấn đứa trẻ mồ côi/ hai mươi ba nghìn ngọn nến không thiêu được nước mắt/ hai mươi ba nghìn ngọn nến bỏng rát lưng quê hương/ ai đốt giấc mơ bằng ngọn nến lòng ta đầy khăn tang/ người có về với mẹ những mô đất ven làng/ con số lặng thinh găm vào bốn nghìn năm cúi mặt/ vàng lên đời chúng ta/ tôi bày ra lòng một nghĩa địa liệm thêm đôi mắt mình…”.

Từ trong những điều cụ thể nhất, Trần Đức Tín vẫn khái quát được mọi câu chuyện, mọi sự kiện, mọi điều theo cách của riêng mình, sự độc lạ của thơ anh chính là cụ thể trong khái quát và khái quát trong cụ thể rất ấn tượng. Thơ anh không ít mơ hồ mà vẫn luôn hiển hiện, không rõ thân xác mà vẫn hình hài, không đi dường vòng mà ý tứ xa xôi... Tín đã thành công với những câu thơ tự do của mình bởi sự cô đọng và khác biệt: “không có cái chết của chánh niệm/ ta từ bi ta hơn nửa đời/ bàn tay lúa nước, da vàng, diều giấy mọc vào khoảng trống tổ tiên/ không có cái thở của chánh niệm/ sau lưng ta vẫn là nghĩa địa làng/ không có tiếng kinh nào là chánh niệm/ sót tiếng vịt đồng mổ quê hương” - (Chánh niệm).

Thơ Tín có khi là tiếng thở dài, khi là lời ai điếu, rồi vẫn có thể là một lưỡi dao khoét vào nỗi đau muôn đời của con người, của thân phận làm người từ thuở hồng hoang sơ khai ấy…

chúng ta sống bằng định nghĩa/ bằng giáo lý/ bằng tôn thờ/ bằng cuồng tín/ bỏ hết những thứ con người làm ra/ kể cả suy nghĩ này/ thì cội rễ của chúng ta là gì/ những thứ được đặt tên/ là sự bất lực của giống loài/ như môi em chẳng hạn/ trong những đêm tối cổ/ da ta có kịp vàng?” - (Trên môi em tối cổ).

Rõ ràng thơ Trần Đức Tín luôn đánh thức lòng người, để gợi mở những cánh cửa tâm hồn từ nhiều góc nhìn: “nắng lưu dân làm da ta vàng/ mưa lưu lạc làm mắt ta đen/ tôi phải băng bao mùa nữa/ để về đến ngọn cỏ đầu làng/ vài người mẹ đã ngủ quên dưới đất/ tôi phải chọc thủng bao khoảng trời nữa/ để về thắp hương cho mình/ trong làn khói điểm danh tộc người di tản/ tôi xin hát/ về những giấc mơ…” - (Hình hài).

Trần Đức Tín là một nhà thơ rất trẻ, anh mới ngoài ba mươi tuổi. Thơ với anh như bùa mê, như món nợ không vay mà tự nguyện trả. Với gia tài là bốn tập thơ và nhiều giải thưởng, thơ anh đã làm được nhiều điều ngoài giá trị văn chương. Trái tim ấy đã, đang và mãi mãi vẫn đập nhịp Cửu Long Giang máu thịt, vâng, cứ ném hòn đất xuống nước sẽ nhập thành cội nguồn…

Nguồn Văn nghệ số 7/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm
Nhà thơ Trần Đôn và “hành trình” Rong chơi 2
Ở tuổi U80, nhà thơ Trần Đôn vẫn dồi dào sức sáng tạo, vừa hoàn thành tập thơ Rong chơi 2 – một “hành trình” thi ca “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” đầy chiêm nghiệm.
Xem thêm
Nguyễn Văn Mạnh - Thơ là những trang đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa đã khắc họa chân dung một hồn thơ đa diện, nơi mỗi vần thơ đều thấm đẫm trải nghiệm, nỗi đau, niềm kiêu hãnh và tình yêu tha thiết với con người, đất nước.
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức – Tiếng lòng tha thiết của một đời trải nghiệm
Hai bài cảm nhận của nhà thơ Tố Hoài và nhà thơ Phạm Đình Phú
Xem thêm
Thêm một Nguyễn Trường viết phê bình văn học
Bài đăng Thờ báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức - Bản tình ca viết về tình yêu “một thời hoa lửa”
Cảm nhận về tập thơ Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam
Xem thêm
Sắc thái riêng từ “Khoảng trời xanh ký ức”
Sáng 30/5/2025, Câu lạc bộ Thơ Phương Nam đã tổ chức buổi ra mắt tập thơ thứ bảy mang tên Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một dấu ấn thơ ca thấm đẫm trải nghiệm sống, chan chứa hoài niệm và thấm đượm tình người.
Xem thêm
Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai
Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập Đồng (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.
Xem thêm
Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài
Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.
Xem thêm
Cái tôi trữ tình sâu lắng trong Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền
Đọc tập thơ Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2025
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều Tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Lan tỏa giá trị văn hóa: Sức mạnh của đội ngũ văn nghệ TP.HCM
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Phật giáo hộ quốc dưới góc nhìn tiểu thuyết vương triều Tiền Lý
Sớm mai, sương bạc vương trên cánh sen tĩnh mặc, hồ nước phẳng lặng phản chiếu bầu trời vô tận. Tiếng chuông chùa ngân dài trong làn gió sớm, tan vào không gian như những vòng sóng lan tỏa, vọng về từ ngàn xưa lời kinh Bát Nhã
Xem thêm