TIN TỨC

Trái tim đập nhịp Cửu Long Giang

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-02-26 10:31:56
mail facebook google pos stwis
1294 lượt xem

Tác phẩm đoạt Giải thưởng dành cho Tác giả trẻ Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022

TRẦN MAI HƯỜNG

Chín nhánh da vàng là tác phẩm thứ tư của nhà thơ Khét (Trần Đức Tín), cũng là tác phẩm đạt Giải thưởng tác giả trẻ năm 2022 của Hội Nhà văn Việt Nam. Ở đây ta bắt gặp một giọng thơ khá lạ, đầy chiêm nghiệm, bứt phá và độc đáo, một nhà thơ rất nỗ lực trong hành trình chữ nghĩa để kết tinh và phát sáng.

Mở bài thơ đầu đọc câu kết như một câu hỏi lớn: “Điều giỏi nhất của giống loài mình là làm đau người khác/ phải không tôi…. Phải không tôi, phải không chúng ta, và câu hỏi ấy đã dẫn tôi đi chậm và nhiều phút nghỉ trong miên man Chín nhánh da vàng... Trần Đức Tín, bằng sự nhạy cảm thiên bẩm, từ tấm lòng yêu quê thổn thức đến cuộc mưu sinh nhọc nhằn giữa bao la thiên nhiên nơi anh đã sinh ra và lớn lên, trên sông nước và nắng gió Miền Tây sẵn lòng rộng mở, đã đưa Khét về một vùng mới lạ của thơ... Nơi những kẻ mạnh luôn tìm mọi cách để lấn át kẻ yếu thế hơn mình: “Cũng đừng hỏi tôi đi đâu trong ngày tháng bỏ quê/ chân tôi bỏng rát giữa lòng người chật hẹp/ trăng đêm này đã có từ thiên thu trăng trước/ chỉ lòng ta thay đổi” - (Giống loài).

Thơ Trần Đức Tín canh cánh một nỗi lòng lo lắng cho quê hương, thổn thức cùng xứ sở và đồng bào. Một Khét sâu sắc, một Trần Đức Tín thâm trầm, những câu hỏi ngàn năm chưa có lời giải đáp nhưng lại chẳng có ẩn số bao giờ... Chàng trai tự nhận là kẻ tha phương song chưa một phút rời bỏ xứ sở dấu yêu đầy bất ổn và nhiều thương đau của mình: “Tôi nhớ Cà Mau - mưa đầu mùa rát mặt trên bùn lầy ảm đạm xứ u minh tuổi thơ tôi nguệch ngoạc vết ngang những con còng heo hút gió bông tràm réo gọi” - (Tôi với Cà Mau cùng nhịp thở long đong).

Trong hành trình nhọc nhằn chữ nghĩa, Trần Đức Tín đã đi khá xa trên con đường thi ca của riêng mình. Trong ngút ngàn thơ ca hiện đại, không dễ để có một giọng điệu riêng, sự khổ luyện không đủ, tài năng thiên phú là đương nhiên, người thơ còn cần phải có sự nhạy cảm của một tấm lòng, một tâm hồn, một nỗi đau hướng về cội nguồn, xứ sở quê hương và con người..., dường như Khét đang có được điều đó. Những câu thơ cứ lấp lánh trên cuộc rong chơi kiếm tìm mênh mông ấy: “ngủ hết đêm nay với vàm cỏ/ thương những bóng ma trôi trên sông/có khi/ ta ngừng thở để sống/ có khi/ ta tự sinh ra mình” - (Ngủ hết đêm nay với Vàm Cỏ).

Có một điều gì đó mênh mang diệu vợi và sâu thẳm trong câu thơ như một triết lý mà không phải vậy, chỉ có thể là nỗi đau quên mình để hướng tới lòng nhân, hướng về lẽ phải trên đời: “loài người sinh ra/ để lẩn trốn/ nghệ thuật sinh ra/ để đào thoát/ và tôi ngồi đây ăn bóng mình/ còn một mùa đau gieo vào đất/ mấy ngàn năm chưa ai đến gặt” - (Khi ta viết chữ).

Những ẩn ức và cả sự mơ hồ bất chợt đã tạo nên một Trần Đức Tín mang dáng dấp điêu linh, siêu thực và luận lý trong những nét phác thảo vẫn cứ rõ ràng. Anh làm thơ, viết thơ như một “bản mệnh” đất trời sai khiến; giữa đúng sai, thực ảo, vui buồn, sướng khổ, khi chân lý cứ luôn là ảo ảnh ám ảnh phía xa vời. Chữ nghĩa được gieo mầm như vốn vậy, công phu “tỉa cành bắt sâu” không phải là sở trường của nhà thơ mang bút danh Khét bởi chất liệu nơi đó dường như đã được “sàng” qua những trải nghiệm đớn đau cùng với quan niệm rõ ràng, thơ không có sai hay đúng. 

Tôi vừa đi vừa thắp lửa / đôi lần/ tôi thấy tôi chết/ để được sống/ bước chân ai đã giẫm lối vào lòng/ đêm nay/ nghe lặng lẽ trổ bông” - (Đi như cỏ).

Chỉ có tiếng lòng từ trong sâu thẳm của lý trí cất lên, không sợ hãi hay lo lắng mơ hồ, người đọc có thể cảm nhận hay hiểu đến bao nhiêu là tùy, nhà thơ đã, đang và chỉ là kẻ truyền dẫn ngôn từ đấy thôi... Một cách để những câu thơ ra đời thật thú vị và thi vị; điều này hình như chỉ có ở nhà thơ trẻ tuổi: “không có cái chết của chánh niệm/ ta từ bi ta hơn nửa đời/ bàn tay lúa nước, da vàng, diều giấy/ mọc vào khoảng trống tổ tiên” - (Chánh niệm).

Ở nhiều bài trong Chín nhánh da vàng, một tư duy ngỡ như mung lung, đa chiều nhưng người đọc vẫn cảm nhận được nỗi lòng cô độc, thiên hướng cội nguồn và tình yêu cuộn chảy tiếc thương của thi sĩ với lịch sử bi hùng của quê hương, đất nước, giống nòi; mà ở nơi đó, sự hùng tráng và bi tráng cứ luân phiên đổi ngôi cho nhau: “trăng quê mình mắc cạn ở sau lưng/ có bụi lục bình trôi vào áo mẹ tôi rồi bật khóc/ chiếc áo màu nâu lặng câm như tràng hạt/ bay ra đồng rồi củi lửa lưng trời/chúng con: bọn bỏ quê/ quê trôi trên đầu/ quê bạc theo tóc/ trong đau đớn kiệt cùng/ trăng gọi mẹ/ bằng một tiếng chuông hoang” - (Trăng quê).

Hiển hiện trong thơ Trần Đức Tín luôn là quê hương với ngàn vạn nỗi niềm, quê hương nhỏ và quê hương lớn cứ là muôn nỗi xót xa. Xót xa cho mình, cho người, cho những thân phận bỏ quê, bỏ xứ sở ra đi bởi những biến động thời cuộc và bởi cả cuộc mưu sinh mệt nhoài áo cơm. Những cuộc ra đi hay lui về đều nhọc nhằn như nhau, thậm chí là cả nước mắt và sự tiễn biệt thương đau: “loài người/ hồi hương giấc mơ/ bằng cách/ di cư nó/.../ một ngày tháng bảy năm hai không hai mốt/ tôi hồi hương giấc mơ/ bằng cách/ vấn khăn tang cho mình” - (Một ngày).

Và, nỗi đau thắt tim từ mấy chục ngàn linh hồn đã bay cùng mây trắng trong đại dịch Covid-19, những cột khói trắng trời thay những dải khăn tang, phải chăng những linh hồn ấy đã nhập vào thơ anh quằn quại trong ngày tưởng niệm những số phận oan khuất ấy: “ngày mười chín tháng mười một/ ngồi đối diện với những con số/ những con số nhuộm trắng thành phố quấn đứa trẻ mồ côi/ hai mươi ba nghìn ngọn nến không thiêu được nước mắt/ hai mươi ba nghìn ngọn nến bỏng rát lưng quê hương/ ai đốt giấc mơ bằng ngọn nến lòng ta đầy khăn tang/ người có về với mẹ những mô đất ven làng/ con số lặng thinh găm vào bốn nghìn năm cúi mặt/ vàng lên đời chúng ta/ tôi bày ra lòng một nghĩa địa liệm thêm đôi mắt mình…”.

Từ trong những điều cụ thể nhất, Trần Đức Tín vẫn khái quát được mọi câu chuyện, mọi sự kiện, mọi điều theo cách của riêng mình, sự độc lạ của thơ anh chính là cụ thể trong khái quát và khái quát trong cụ thể rất ấn tượng. Thơ anh không ít mơ hồ mà vẫn luôn hiển hiện, không rõ thân xác mà vẫn hình hài, không đi dường vòng mà ý tứ xa xôi... Tín đã thành công với những câu thơ tự do của mình bởi sự cô đọng và khác biệt: “không có cái chết của chánh niệm/ ta từ bi ta hơn nửa đời/ bàn tay lúa nước, da vàng, diều giấy mọc vào khoảng trống tổ tiên/ không có cái thở của chánh niệm/ sau lưng ta vẫn là nghĩa địa làng/ không có tiếng kinh nào là chánh niệm/ sót tiếng vịt đồng mổ quê hương” - (Chánh niệm).

Thơ Tín có khi là tiếng thở dài, khi là lời ai điếu, rồi vẫn có thể là một lưỡi dao khoét vào nỗi đau muôn đời của con người, của thân phận làm người từ thuở hồng hoang sơ khai ấy…

chúng ta sống bằng định nghĩa/ bằng giáo lý/ bằng tôn thờ/ bằng cuồng tín/ bỏ hết những thứ con người làm ra/ kể cả suy nghĩ này/ thì cội rễ của chúng ta là gì/ những thứ được đặt tên/ là sự bất lực của giống loài/ như môi em chẳng hạn/ trong những đêm tối cổ/ da ta có kịp vàng?” - (Trên môi em tối cổ).

Rõ ràng thơ Trần Đức Tín luôn đánh thức lòng người, để gợi mở những cánh cửa tâm hồn từ nhiều góc nhìn: “nắng lưu dân làm da ta vàng/ mưa lưu lạc làm mắt ta đen/ tôi phải băng bao mùa nữa/ để về đến ngọn cỏ đầu làng/ vài người mẹ đã ngủ quên dưới đất/ tôi phải chọc thủng bao khoảng trời nữa/ để về thắp hương cho mình/ trong làn khói điểm danh tộc người di tản/ tôi xin hát/ về những giấc mơ…” - (Hình hài).

Trần Đức Tín là một nhà thơ rất trẻ, anh mới ngoài ba mươi tuổi. Thơ với anh như bùa mê, như món nợ không vay mà tự nguyện trả. Với gia tài là bốn tập thơ và nhiều giải thưởng, thơ anh đã làm được nhiều điều ngoài giá trị văn chương. Trái tim ấy đã, đang và mãi mãi vẫn đập nhịp Cửu Long Giang máu thịt, vâng, cứ ném hòn đất xuống nước sẽ nhập thành cội nguồn…

Nguồn Văn nghệ số 7/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm