TIN TỨC

Trần Nguyệt Ánh – Người ký họa chân dung Tây Nguyên bằng thơ 1- 2- 3

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-05-04 00:29:41
mail facebook google pos stwis
2346 lượt xem

    (Đọc “Vọng núi” (Thơ Trần Nguyệt Ánh – NXB Hội nhà văn , 2022)

Trần Nguyệt Ánh, tên thật là Trần Thị Nguyệt Ánh, quê gốc Thái Bình, hiện đang là giáo viên ở Trường Dân tộc nội trú thị xã Buôn Hồ (Đắk Lắk), hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk. Tác phẩm đã xuất bản: “Gọi về miền nhớ” (thơ - NXB Hội Nhà văn, 2019; “Miền gió say” (NXB Hội Nhà văn, 2021); “Vọng núi” là tập thơ thứ 3 (NXB Hội Nhà văn, 2022). Đây là tập thơ 1-2-3 khá mới lạ. Một dạng thơ chỉ xuất hiện trong vài ba năm trở lại đây. Trang Văn học Sài Gòn đã và đang có cuộc thi thơ 1-2-3 gây sự chú ý và thu hút được nhiều nhà thơ muốn khám phá, thử sức mình. Trần Nguyệt Ánh là một hạt nhân tích cực trong số đó, tháng 7/2021, chị đã nhận được giải thưởng cuộc thi thơ này.

Tác giả Trần Nguyệt Ánh

Tôi khá bất ngờ với thể thơ này! Càng bất ngờ hơn sau khi đọc hết tập bản thảo “Vọng núi”, với 123 bài thơ 1-2-3 của Trần Nguyệt Ánh, tôi nhận thấy như có một ma lực cuốn hút từ tập thơ này. Mỗi bài như một phác thảo, như một bức kí họa bằng thơ. Ở đó, bản chất, mảnh đất, tình yêu, tình người được nhà thơ Nguyệt Ánh chấm phá, tưởng như rất nhanh, nhưng những nhát cọ về một Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ lại hiện lên với khuôn mặt khá thần thái, cá tính, hoang sơ, bình dị, và ẩn chứa nội lực tiềm tàng.

Bản hòa tấu cồng chiêng vút lên/ Âm thanh cuộn trào từ dòng Sê Rê Pốk/ Bật ra từ những cánh rừng già/ Bung lên từ lòng đất ba zan/ Tiếng của núi sông, hòa âm vào hồn dân tộc/ Bên nhà rông, lễ thổi tai cho một sinh linh chào đời”.

Thơ 1-2-3 của Trần Nguyệt Ánh không đi sâu vào đặc tả sự vật  hiện tượng, tất cả như khái quát, như dàn ý của bài tập làm văn. Ở đó, khơi gợi khi nói về Tây Nguyên, người ta không thể không nhắc đến cồng, chiêng; đó là tiếng nói tâm linh của người dân bản địa với Yang (trời - đất), cầu bình an và mùa màng bội thu; người ta không thể quên sức mạnh sục sôi của con sông Sê rê pốc, có mạch nguồn trong sâu thẳm từ rừng già, từ trong mạch ngầm đất đỏ ba zan... Ở đó, trong ngôi nhà rông, lễ thổi tai cho một sinh linh chào đời, để tất cả như thấy một Tây Nguyên hoang sơ, dữ dội luôn được kế thừa và những mầm non được sinh ra và lớn lên mạnh mẽ. Những mầm non của đại ngàn được thai nghén, tôi luyện trong khí trời, âm thanh cồng chiêng, của sông cha, sông mẹ, có khi, nguồn cơn từ ánh mắt.

    “Ánh mắt mẹ sáng bừng trang cổ tích/ Soi cho con thoát kiếp nhọc nhằn/ Bàn tay mẹ chai sần vất vả/ Dắt con qua vùng lam lũ mưu sinh/ Hạt hạnh phúc mẹ gieo trồng ý thức/ Ngát đời con hoa thắm ân tình”.

Từ ánh mắt mẹ soi sáng, dẫn dắt con đi từ cổ tích bước ra đời thật, với bàn tay lao động chai sần, vất vả, cuộc sống làm lũ mưu sinh, để câu kết ... “Ngát đời con hoa thắm ân tình” là một câu chuyện dài về cuộc đời, và một cái kết đầy nhân nghĩa. Mẹ luôn chấp nhận mọi gian khó, hy sinh để đời con tươi sáng trong một thế giới ngát hương hoa ân tình. Vẻ đẹp truyền thống, cốt cách của mảnh đất, con người, đặc biệt là hình ảnh người mẹ Tây Nguyên truyền lửa cho con được đúc kết sáng ở thì tương lai, có giá trị nhân văn và trường tồn vĩnh cửu. Những sinh linh của đại ngàn vừa chào đời ấy lại được được mẹ, cha, thụ phấn, ươm mầm trong lao khổ nhưng đầy tình yêu thương... để bức tranh mẹ vẽ tương lai con bừng sáng, rộng mở.

    “Ươm mầm xanh tỉa xới vun trồng/ Mẹ thai nghén cả mùa gieo hạt/ Cha thụ phấn cánh đồng ngô cuối vụ/ Giọt yêu thương ngấm mặn đất khô cằn/ Bờ vai nhỏ oằn cong miền ký ức/ Từ cánh đồng con thẳng bước phía trời xa”.

      Hình ảnh Tây Nguyên, đôi khi chỉ là khung cửi ngày xưa ngủ quên trên gác bếp, đôi khi là chiếc gùi trên lưng lên rẫy, làm nương, với những củ sắn, đọt khoai, quả bắp, níu vịn với người đi qua nghèo đói, vào thơ Trần Nguyệt Ánh cũng hiện lên một hình ảnh Tây Nguyên tươi đẹp, đậm chất truyền thống:

 “Gùi tre, ta vịn vào em cùng nhau nương náu/ Đồng hành giữa nhịp sống muôn màu tràn hương sắc/ Củ sắn, đọt khoai, củi khô, quả bắp/ Dìu nhau vượt qua cái đói nghèo/ Ta vịn vào em thấy cuộc sống đẹp tươi/ Em trên lưng cho nét dân tộc sáng ngời huyền thoại”.

      Nhà thơ Trần Nguyệt Ánh, một giáo viên với hơn 20 năm trên bục giảng. Chị thường xuyên tiếp xúc với số đông con em các dân tộc thiểu số, thấu hiểu sâu sắc những khó khăn vất vả và những thiếu thốn các em cần bù đắp, những giấc mơ ngủ vùi cần được khai sáng. Tập thơ “Vọng núi” của chị như tiếng vọng thời gian, hướng con người về cội nguồn, gốc rễ với những giá trị nhân văn sâu lắng, từ đó thắp sáng ước mơ, khát vọng của mỗi người.

Tiếng đàn Chapi đi tìm giấc mơ/ Theo ngọn gió vút cao đỉnh núi/ Mơ hạt lúa đầy bồ, hạt cà phê tròn mẩy/ Ché rượu cần ngọt thơm mùi nếp rẫy/ Ánh mắt Tây Nguyên nồng ấm ân tình/ Giấc mơ nảy mầm từ đất cổ bazan!

Từ những giấc mơ nhỏ nhoi, mơ lúa đầy bồ, hạt cà phê tròn mẩy, những “Giấc mơ nảy mầm từ đất cổ bazan”... là giấc mơ của mảnh đất, con người Tây nguyên. Cả những giấc mơ của con trẻ, cho dù phải đi qua năm nắng mười mưa, những mùa giáp hạt đói khát, vẫn luôn được nuôi dưỡng bằng ánh mắt ân tình của cha, của mẹ. Và cho dù “Tấm lưng mẹ uốn cong cả hoàng hôn” để đời con bước ra ánh sáng, được sống trong thơm thảo nghĩa tình.

Ngày đã cạn/ Thu trôi trên cánh đồng giáp hạt/ Tuổi thơ con lấm lem mùi rơm rạ/ Chiều nay bão chạy dọc cánh đồng/ Tấm lưng mẹ uốn cong cả hoàng hôn/ Tảo tần ngược xuôi cho đời con thơm thảo!”.

Hình ảnh “Tấm lưng mẹ uốn cong cả hoàng hôn” là một hình ảnh rất thơ, là một điểm sáng trong tập. Ta thấy hình ảnh người mẹ lưng còng cõng nắng, được ví von lưng mẹ uốn cong cả hoàng hôn. Nhà thơ Trần Nguyệt Ánh sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hóa ca ngợi đức hi sinh lớn lao của người mẹ. Một bức tranh nghệ thuật khơi gợi tư duy hình tượng, không chỉ riêng tạc vào trời đất hình ảnh người mẹ Tây Nguyên mà là người mẹ chung, người mẹ đất nước vĩ đại có giá trị xuyên thời gian. Nơi ấy, những đứa con được sinh ra, lớn lên trong vòng tay yêu thương của cha, mẹ, được tắm gội trong dòng sông nhân nghĩa, chan chứa ân tình, những đứa con ấy, hơn ai hết cũng cảm nhận sâu sắc công cha, nghĩa mẹ tận sâu thẳm trái tim mình.

Chiều bên dòng Krông A Na/ Con dựa vào lòng sông mẹ/ Lắng nghe nước chạy dọc tim mình/ Dòng sông tình yêu từ lòng Cư Yang Sin bất tận/ Cùng hòa nhập vào dòng sông cha/ Dáng mẹ hiền hòa”.

 Từ đó: “Con tự vẽ cho mình một đường bay/ Vẫy vùng trên bầu trời nhân nghĩa/ Cất cánh với ước mơ rộng mở...

Tập thơ Vọng núi của nhà thơ Trần Nguyệt Ánh là đứa con tinh thần thứ ba và là tập thơ đầu tiên viết theo thể thơ 1-2-3, chắc chắn cần lắm sự đầu tư, nghiên cứu, thẩm định của các nhà chuyên môn. Tôi là một người yêu thơ chỉ đọc, cảm nhận, nhìn tập thơ ở một góc nhỏ, còn nhiều bài thơ trong tập viết về muôn mặt cuộc đời sinh động, cảm động và lôi cuốn... Bên cạnh những mặt nổi trội như đã nói, ở tập thơ này có cảm giác nhiều bài vẫn nặng về tả, câu thơ còn thô, chưa được mềm mại. Tôi cho rằng, dù là thơ gì đi chăng nữa, thì lời lẽ, ngôn ngữ thơ phải đẹp, phải có nhạc tính, có thi ảnh, khơi gợi trí tưởng tượng và lôi cuốn người đọc. Dù sao cũng là một bước đột phá táo bạo của nhà thơ Trần Nguyệt Ánh. Tôi xin trích nguyên văn những trao đổi, suy nghĩ của chính tác giả tập thơ, để mọi người có thêm sự đồng cảm, và có thêm những ý kiến đóng góp cho nhà thơ Trần Nguyệt Ánh có thêm động lực, niềm tin, theo đuổi và thành công hơn ở những tập tiếp theo:

Để đi đến quyết định in tập thơ Vọng núi, tôi muốn “đổi mới” mình. Tôi rất vinh dự là một trong những người đầu tiên góp tiếng nói của mình, muốn đi sâu khám phá bản sắc văn hoá, phong tục của người Tây nguyên thể nghiệm ở loại hình thơ mới mẻ, đầy sức hấp dẫn này! Điều mà một cây bút mới như tôi vẫn đang trên con đường tìm kiếm phong cách cho riêng mình. Tôi mong đón nhận nhiều sự góp ý và hi vọng sau tập “Vọng núi”, bạn đọc sẽ được đón đọc nhiều hơn nữa về thơ 1-2-3”của tôi, cũng như của nhiều nhà thơ trên cả nước”.

                                              Trương Nhất Vương

                                        (Hội VHNT tỉnh Đak Lak)

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm