TIN TỨC

Trương Nam Hương: Thi sĩ cầm tinh... con mèo

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-01-05 20:57:02
mail facebook google pos stwis
1750 lượt xem

NGÔ ĐỨC HÀNH

Trương Nam Hương là nhà thơ nổi danh từ lúc còn trẻ. “Mẹ cho anh tuổi Mèo tam thể”, (thơ Trương Nam Hương), nghĩa là ông sinh năm 1963, tuổi Quý Mão - Tết Quý Mão này, nhà thơ Trương Nam Hương vừa tròn “Lục thập hoa giáp”.

Những tập thơ tiêu biểu của ông như: “Khúc hát người xa xứ” (NXB Trẻ, 1990), “Cỏ, tuổi hai mươi" (NXB Văn nghệ, 1992), “Ban mai xanh” (NXB Đồng Nai, 1994), “Ngoảnh lại tháng năm” (NXB Văn học, 1995), “Viết tặng những mùa xưa” (NXB Thanh Niên, 1999) “Ra ngoài ngàn năm” (NXB Văn Học, 2008), “Thời nắng xanh & những bài thơ khác” (NXB Hội Nhà văn, 2022). Ở thời điểm kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, ông là hội viên trẻ tuổi nhất sở hữu giải thưởng thơ danh giá.

Trương Nam Hương, nhà thơ cầm tinh Quý Mão, nhằm mệnh Kim, đã đạt được nhiều giải thưởng danh giá trong văn chương. Ở tuổi 28, ông vinh dự nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Thành tựu văn chương này là hạnh phúc lớn lao không dễ có được, nhất là khi tuổi đời, tuổi văn chương của ông còn trẻ. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho một tác giả, chắc chắn người đó phải có tài. Ông từng đạt danh hiệu “Nhà thơ được yêu thích nhất” do Báo Người lao động bình chọn, vừa lúc ông 29 tuổi.

Thơ Trương Nam Hương đa tầng, đa âm, đa sắc. Mẹ mất sớm. Mười hai tuổi, Trương Nam Hương theo gia đình vào Sài Gòn. Ám ảnh mồ côi, ám ảnh tha hương cứ đi suốt theo ông, đặc biệt mạnh mẽ và da diết trong những năm tháng tuổi đôi mươi. Chẳng phải tự nhiên, trong thơ ông có một “tôn giáo mẹ” trong tâm hồn nhà thơ Trương Nam Hương.

Danh từ “mẹ” xuất hiện trong rất nhiều bài thơ của ông, từ “Gió khuya”,“Băn khoăn”, “Chùa Vĩnh Nghiêm”, “Tuổi thơ”, “Dặn lòng”, “Ngỏ với trúc xinh”. Không có gì thiêng liêng bằng tình mẫu tử. Ngoài thân phụ, nhiều bài thơ, câu thơ về bà, về cha, về mẹ, về chị, về em rưng rức xúc động. “Tôi bước ra sân mắt trăng giàn giụa/ Cây thị lắc như bóng đồng nhảy múa/ Tôi gọi bà. Bà mất đã nhiều năm...”, (Cổ tích của bà). Cảm thức “máu chảy ruột mềm”, đạo lý “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” (Ca dao), chảy trên những câu thơ, dâng lên thành những tứ thơ xúc cảm. Bản thân thi ca là hướng nội. Nhà thơ vịn vào cô đơn tìm ra bản thể.

Dáng cha, bóng mẹ, tuổi thơ, quê hương... trong thơ Trương Nam Hương lồng lộng, xoắn xuýt, vừa giản dị, vừa sang trọng cho người đọc những cảm xúc đặc biệt. “Tết này nhà lại vắng cha/ Thuốc không thơm nữa ấm trà bớt ngon/ Cha đi về phía vuông tròn/ Trần gian lấm láp mãi còn nắng mưa” (Dâng cha).

Thiên chức làm cha định vị họ phải vững chãi và mạnh mẽ như núi; có thế mới nuôi dưỡng, chăm chút, yêu thương và dõi theo từng bước trưởng thành của con. Con mình luôn mãi non xanh, vụng dại và bé bỏng trong mắt họ.

Vì thế, khi người cha mất đi, Trương Nam Hương đã trải qua giây phút thẫn thờ, khi “ngọn núi” chở che, “bầu trời bao la” của mình không còn. “Con không tin có thiên đường/ Nhưng tin có thật nỗi buồn, cha ơi!” (Dâng cha). “Trong cha có một câu hò/ Trong câu hò có con đò sông Hương/ Trong sông Hương có nỗi buồn/ Trong thăm thẳm có vô thường thi ca...” (Lời thưa). Đây là những câu thơ của một thi sĩ tài hoa.

Dĩ nhiên, khi tiếng nói của bản thể trở thành tiếng lòng chung, người đọc thấy mình có ít nhiều trong văn bản. Tình cảm cá nhân, qua những bài thơ về cha, mẹ, bà... được người đọc rọi chiếu, nhận ra mình có trong trường cảm xúc của nhà thơ. Đó mới là sự thành công của thơ. “Hạt gạo ít, hoa gạo nhiều đến thế/ Bao gió bấc mưa phùn không đếm xuể/ Chỗ bà ngồi giông bão cũng vây quanh” (Cổ tích của bà). Ai cũng có nội, ngoại, cha mẹ; đọc riêng khổ thơ này, ai không nhớ bà nội/ ngoại của mình? Bài thơ còn vẽ lên hoài niệm về bà, bức tranh về làng quê, xốn xang một thuở.

“Mỗi đêm ngủ ta mơ thức dậy/ Khẽ quờ tay chạm cát sông Hồng/ Ai mới thả cánh bèo qua đấy/ Có chở giùm Quan họ theo không?” (Hồi tưởng). “Anh cứ tưởng tháng năm hào phóng lắm/ Thơ dại ngày anh lộc vừng lấm tấm/ Ngây dại ngày em xao xít dây bìm” (Tạp cảm).

Cứ thế, Trương Nam Hương hồi tưởng, tạp cảm về “Miền em”, về “Rơm rạ một thời tôi”, về “Cổ tích của bà”; về mẹ, về cha... “Nhặt tuổi mình” nơi “Góc cỏ”, nơi “Khói bếp xưa”. Phải nói rằng, bản đồ tâm hồn Trương Nam Hương rậm rịt cỏ may, dây chạc chìu... của thời “Hoa vàng một thuở”. Trương Nam Hương là người nặng nghĩa, nặng tình. Tập thơ xác tín ông là người hoài niệm, đa mang, đa sầu, đa cảm.


Nhà thơ Trương Nam Hương một lần ra thăm Hà Nội.

“.../ Con lam lũ của một thời/ Để khi khôn lớn nên người lại xa/ Mỗi lần nhìn khói ngang qua/ Tự dưng mắt nhớ quê nhà lại cay” (Khói bếp xưa). Dường như Trương Nam Hương sở hữu một kho báu nỗi buồn, nỗi buồn khách thể, ngay cả “Tiếng thở của mùa” nhập vào ông thành nỗi buồn chủ thể. Cứ thế dâng đầy lên. “Nghe mùa trở gió hoang mang/ Nắng mưa cũng nhạt thời gian cũng nhòa/ Tình người xa lắm là xa/ Chiều nay mùa thở đầy ta nỗi buồn” (Tiếng thở của mùa).

 “Mùa xanh”, “Gọi nhau mấy thuở”, “Bâng quơ”, “Cổ tích của bà”, “Góc cỏ”, “Bâng quơ”, “Hoa bất tử”... là những bài thơ sáng tạo về thi pháp. Mỗi khổ thơ chỉ có 3 câu, tứ chặt. Trương Nam Hương còn làm mới “thành trì” truyền thống của lục bát, làm mới đồng dao thành những bài thơ, khổ 3 câu, nhịp 8 chữ uyển chuyển, man mác. “Đi qua năm tháng gập ghềnh dại khôn/ Niềm vui bong bóng hào quang chập chờn/ Chiếc gai chìm khuất nhói vào cô đơn” (Ghi vội trên đường). Trong nhiều trường hợp, đồng dao truyền thống và đồng dao cách tân có mặt trong một bài, biến hóa, tạo ra nhịp điệu thơ mới lạ. Tức là Trương Nam Hương luôn biết làm mới, những điều tưởng cũ.

Tôi cứ phân vân, để ý, những bài thơ Trương Nam Hương viết về dòng sông, như “Trước sông”, “Lỗi hẹn sông Cầu”, “Sông Tiền ngày xa em”, “Gửi hai dòng sông quê”, “Nhớ sông Mẹ”, “Với sông Hồng”. “.../ Chỉ sông Hồng thương mẹ hát đơn côi/ Phù sa đỏ như miếng trầu mẹ quệt/ Ăn hạt gạo mãi giờ con mới biết/ Có sông và đời mẹ ở bên trong” (Với sông Hồng). Đấy là mới liệt kê trong tập thơ mới nhất “Thời nắng xanh & những bài thơ khác” của ông.

Trương Nam Hương gốc Huế, cha tập kết ra Bắc, mẹ là con gái Bắc Ninh. Anh sinh ra ở Hải Phòng, tuổi thơ gắn bó với Hà Nội. Trải nghiệm ấy giúp anh có được nhiều bài thơ, nhiều câu thơ thật hay viết về những miền đất ấy, đặc biệt là Hà Nội. “Tạ ơn Hà Nội trọn đời/ Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo...” (Hà Nội một thời).

Mỗi độ Xuân về, Trương Nam Hương càng nhớ đất Bắc, nhớ tuổi thơ và những lần theo mẹ lên chùa hái lộc đầu Xuân. “Mùa Xuân theo mẹ lên Chùa/ Oản xôi hóng nhận, chuỗi bùa hóng đeo/ Mẹ quì tôi nép quì theo/ Lạy từ ngọn cỏ lạy veo… tới trời!”. Xa Hà Nội gần 50 năm, ông vẫn giữ giọng Bắc, thích ăn cơm Bắc, và vẫn uống cà phê theo phong cách Hà Nội giữa Sài Gòn. Những ngày giáp Tết là lúc lòng ông nhớ đất Bắc vô cùng: “Sớm nay Sài Gòn thật lạ/ Mưa Xuân đất Bắc vương vào/ Anh mời heo may ghé quán/ Gọi cà phê nhớ xôn xao” (Lời mời tháng giêng).

Hà Nội trong ông đã thuộc về tâm thức, ông nhớ Hà Nội bằng cả linh hồn. Mỗi dịp Xuân về, Trương Nam Hương thấy lòng ngơ ngác. Ấy là lúc ông nhớ nhảy tàu điện ra Bờ Hồ xem bán mứt Tết, xem người lớn mua đào, mua quất, cả bánh chưng xanh, câu đối đỏ. Tiếng pháo tép rộn ràng trong góc khuất trái tim.

Thường người ta nhớ khổ đau, nhớ thời đói khát. Trương Nam Hương là thi sĩ, càng thế: “Tết nghèo bánh lá thay cơm/ Đồng xu mừng tuổi còn thơm mùi bùn/ Con cầm thương khó run run/ Muốn khoe với cả mưa phùn mẹ ơi!” (Nhớ Tết). “Tôi là người “mang” Hà Nội theo suốt hành trình thơ và những thăng trầm của đời mình”, Trương Nam Hương tự thú, giật mình trước tiếng chuông Nhà thờ Cửa Bắc. Mười hai tập thơ của ông, chưa tập nào thiếu vắng Hà Nội, thiếu vắng những khắc khoải về Hà Nội. Chưa Tết năm nào nhà ông thiếu cành đào Nhật Tân (Hà Nội), bên cạnh chậu mai vàng Sa Đéc (Đồng Tháp). Chừng ấy đã đủ đầy.

Là người “cầm tinh con mèo”, mỗi năm Mão đến, Trương Nam Hương dày lên hoang hoải. Nhà thơ nào cũng có nỗi buồn “đặc hữu”, Trương Nam Hương không ngoại lệ. “Hoa như môi người hớn hở/ Cánh tươi xòe nở nghiêng chào/ Lá mướt mở lòng đon đả / Đón làn hương ngát dâng trao” (Bình hoa Tết). “Càng nhớ mẹ những ngày giáp Tết/ Khói mùa xưa đọng mắt cay xè/ Con ra phố một mình đón rét/ Kiếm một niềm an ủi xa quê...” (Nhớ mẹ chiều cuối năm). Trương Nam Hương luôn nhớ một ngày Xuân, ông về quê mẹ, lắng mình trong những câu quan họ, với nỗi niềm bâng khuâng. “Bây giờ Quan họ bồng con/ Trúc xinh trúc đứng mỏi mòn đợi mong/ Ngày em bỏ hội theo chồng/ Mùa Xuân Quán dốc rối bòng rễ si ” (Mùa xuân quan họ).

Trương Nam Hương là nhà thơ có tài. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều từng ví von: “Tôi cầm tinh con gà suốt ngày lam lũ bới đất kiếm sống, Trương Nam Hương cầm tinh con Mèo - chú mèo thơ đài các trong ngôi nhà đẹp” (Nguyễn Quang Thiều: Những nhà thơ tuổi Mèo trong trí nhớ của tôi, Văn nghệ Công an, Xuân 1999).

Đọc kỹ thơ Trương Nam Hương, nhận ra ông không cầu kỳ, rối rắm về thi pháp, không tìm cách làm “xiếc chữ”. Thơ thi sĩ Trương Nam Hương là minh chứng của “quy luật muôn đời”, phải đơn giản hóa mọi phức tạp, đi từ mình đến người, từ tự do đến tất yếu. Chính sự giản dị, giàu cảm xúc, rưng rức nỗi người, mới làm tròn sứ mệnh của thi ca.

Nguồn: https://vnca.cand.com.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm