TIN TỨC

Về cuốn hồi ký ‘Gánh gánh gồng gồng’ của Xuân Phượng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-19 22:13:52
mail facebook google pos stwis
10071 lượt xem

Nguyễn Thị Việt Nga

Tôi sinh ra sau chiến tranh. Bố tôi là một thương binh, một người lính cụ Hồ, từng hành quân qua dãy Trường Sơn, chiến đấu ở nhiều mặt trận phía Nam, để lại một phần xương máu nơi chiến trường và “suýt thành liệt sỹ” mấy lần, theo cách nói của bố.

Từ nhỏ xíu, những câu chuyện tôi thường được nghe bố kể nhất là chuyện chiến đấu. Rất chi tiết và sinh động.

Tuy vậy, chiến tranh, đối với lớp hậu sinh như tôi, vẫn chỉ là một khái niệm nằm im trong sách vở. Lớp lên chút nữa, không hiểu sao tôi rất ham tìm đọc những cuốn sách viết về chiến tranh, nhất là chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ của Việt Nam; từ sách văn học đến sách lịch sử. Tốt nghiệp Đại học năm 1998, tôi làm luận văn về tập thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, một tập thơ ra đời trong chiến tranh, với các bài thơ chủ yếu về đề tài chiến tranh. Luận văn thạc sỹ năm 2008 của tôi nghiên cứu về Nhật ký chiến trường của những người lính Việt Nam trong cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu như Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, Hoàng Thượng Lân… Rồi khi làm luận án Tiến sỹ, tôi cũng chọn mảng văn học ra đời trong chiến tranh: văn học các vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975. Tâm trạng con người trong chiến tranh, thân phận con người và những dằn vặt, đau đớn khi đối diện với sự hủy diệt bạo tàn; sức mạnh tinh thần lớn lao nào khiến con người có thể vượt qua tất thảy mọi gian nguy để chiến thắng… Tất cả những điều đó sẽ hiện lên chân thực nhất trong tiếng nói của người trong cuộc, để thế hệ hậu chiến như chúng tôi có được cái nhìn công bằng và sâu sắc về lịch sử.

“Gánh gánh gồng gồng”, cuốn hồi ký của đạo diễn Xuân Phượng là “tiếng nói của người trong cuộc”; một cuốn sách làm tôi thực sự cảm thấy đau tim khi đọc, đến nỗi có những trang phải ngừng lại giữa chừng, không dám đọc tiếp.

Nhưng đó là nỗi đau rất đỗi ngọt ngào.


Hồi ký “Gánh gánh… gồng gồng…” của đạo diễn Xuân Phượng.

Cuốn sách là chuỗi ký ức của tác giả từ lúc ấu thơ cho đến hiện tại, trải mấy chục năm, từ những năm 1930, khi Xuân Phượng còn là một cô bé hơn chục tuổi sống yên ấm trong vòng tay cha mẹ cho đến hôm nay, khi bà đã trả qua đủ mọi cung bậc cuộc đời, từ những cay đắng, cơ cực gian nguy nhất, đến những ngọt ngào, những thành công vang dội cả trong sự nghiệp lẫn cuộc sống cá nhân. Thông thường, khi đến với thể loại rất riêng tư là hồi ký hay nhật ký, người đọc thường có nhu cầu tìm hiểu về đời sống, tâm trạng của một cá nhân cụ thể; và người viết cũng muốn tâm sự, thổ lộ những điều riêng tư, thậm chí cả những góc khuất chưa ai nhìn thấy trong cuộc sống của mình, như một nhu cầu tự thân thôi thúc: nhu cầu được bộc bạch và chia sẻ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó, hồi ký hay nhật ký mới chỉ thỏa mãn được tâm lý hiếu kỳ ở một số ít độc giả. Giá trị của hồi ký, nhật ký nằm ở việc qua số phận, tâm trạng, cuộc sống của một cá nhân cụ thể phản chiếu cuộc sống, tâm trạng, số phận cả cả một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc, để qua đó toát lên những triết lý, những bài học nhân sinh sâu sắc. Và “Gánh gánh gồng gồng” đã làm được điều đó một cách tự nhiên, dung dị, chân thực.

Cho đến tận giờ, chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ nhưng nhắc đến Việt Nam, rất nhiều bạn bè quốc tế vẫn ngỡ ngàng, khâm phục trước kỳ tích chiến thắng của Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ vĩ đại bảo vệ tổ quốc. Ngỡ ngàng, khâm phục vì không hiểu tại sao một dân tộc nhỏ bé (theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng), còn rất nghèo nàn và lạc hậu lúc bấy giờ lại có thể chiến thắng vẻ vang trước hai đối thủ mạnh bậc nhất toàn cầu. Tôi nghĩ, câu trả lời có đầy đủ trong cuốn hồi ký của Xuân Phượng. Nguyên do việc công bố cuốn sách này, như bà bộc bạch ngay từ đầu sách: “Tôi mong muốn gia đình thương yêu hiểu rõ thêm những gì tôi đã trải qua. Và cũng vì những người trẻ chưa hề biết đến chiến tranh, tôi quyết định viết lại ĐỜI TÔI”.


Đạo diễn Xuân Phượng.

Tôi đã tiếp cận hồi ký “Gánh gánh gồng gồng” đúng như mong muốn của tác giả: một người chưa hề biết đến chiến tranh, tìm hiểu về cuộc chiến, về đất nước, về những người “đã làm ra đất nước” từ trong lửa đạn, trong muôn vàn cơ cực, đắng cay và xương máu. Chiến tranh dẫu nổ ra ở bất cứ đâu, vì bất cứ lý do gì, cũng đều mang đến bi kịch cho tất cả mọi bên liên quan, mọi người liên quan. Bản chất của chiến tranh là bi kịch, khi con người không thể sống với nhau một cách ôn hòa. Bi kịch của Xuân Phượng và gia đình bà được tái hiện trong hồi ký bằng những lời kể thủ thỉ, nhẹ nhàng nhưng chứa đựng nỗi đau xé ruột. Đó là bi kịch của một gia đình bị xé nát bởi chiến tranh. Có sự tan đàn xẻ nghé do loạn lạc, mỗi người một nơi, không biết những thân yêu, ruột thịt của mình sống chết thế nào; nhưng đỉnh cao của bi kịch chưa phải là chuyện tan đàn xẻ nghé, mà là chuyện lòng người ly tán. Cô bé Xuân Phượng sinh ra trong một gia đình quyền quý, có tuổi thơ êm đềm, đẹp đẽ và đầy đủ với người cha là “Thanh tra Học chính kiêm Hiệu trưởng trường tiểu học duy nhất bấy giờ ở Đà Lạt”, ông nội là “quan triều đình Huế”. Thế nhưng những êm đềm đó không kéo dài. Cuộc sống cơ cực, lầm than của những người làm thuê cho gia đình cô bé Xuân Phượng trái ngược với cuộc sống nhung lụa cô đang hưởng; thái độ của cô bạn người Pháp thân thiết trong ngôi trường Pháp khi đang giờ chào cờ, cô bạn chạy ra đạp lên bóng lá cờ An nam và nói những câu miệt thị đã khiến trong trí óc non nớt của Xuân Phượng vỡ ra những cảm nhận đầu tiên về cuộc sống: “tôi lờ mờ nhận thấy rằng cuộc sống của mình, của gia đình mình không êm đềm, nhẹ nhàng và vô tư như mình tưởng” (tr22).

Những êm đềm, nhẹ nhàng, vô tư ấy chấm dứt khi Xuân Phượng quyết định xếp bút nghiên để theo Cách mạng, dưới sự dẫn dắt của người dượng, bắt đầu bằng việc mang truyền đơn trong cặp sách, qua mặt “những tên lính Nhật đang bồng súng, hằm hằm xét người qua lại”. Cô nữ sinh trường Khải Định ấy chỉ có một nguyện vọng lớn lao nằm trong bảy chữ “giành độc lập cho đất nước”, sẵn sàng rời bỏ gia đình – một gia đình có gốc gác đại triều, bố đang thân Pháp.

Bi kịch sâu của chiến tranh là đấy! Là chuyện lòng người ly tán. Để rồi cả nửa thế kỷ sau, khi Xuân Phượng gặp lại mẹ mình, người mẹ vẫn đau đáu một câu hỏi tái tê: “Con ơi, sao con theo họ làm chi, để gia đình ly tán, phải rời quê cha, đất tổ con ơi” (tr11). “Theo họ”, nghĩa là theo Cộng sản, theo Cách mạng. Nếu cứ yên phận dưới cuộc sống của một tiểu thư, chắc chắn cuộc đời Xuân Phượng đi theo hướng khác, không có những thác ghềnh, cay đắng, không vào sinh ra tử long đong.

Một gia đình nhưng có những con người ở hai chiến tuyến khác nhau. Chọn một con đường đầy chông gai, xương máu để sống theo lý tưởng, cô tiểu thư Xuân Phượng đã phải đánh đổi quá nhiều, phải bước hẳn khỏi mái ấm gia đình, dẫu cho người mẹ của cô đã tìm đến tận nơi con gái mình đang hoạt động cách mạng để khóc, để khuyên con quay trở về. Nhưng “dù rất thương mẹ, thương em, tôi đã chọn con đường tự nguyện đi vào hoạt động chống xâm lược Pháp” (tr 33). Đó mới là bi kịch lớn nhất mà chiến tranh trùm lên thân phận con người, chứ không phải chuyện đổ máu, hy sinh.

Theo dòng hồi ký, từng giai đoạn cuộc đời của tác giả hiện lên ám ảnh. Giai đoạn nào cũng có những chi tiết tạo nên dư chấn mạnh mẽ trong lòng độc giả. Đó là chuyện tình yêu trong chiến tranh, dù rất ngất ngây với tình cảm đầu đời, nhưng khi người yêu đắn đo “gia đình con một, thầy mẹ anh không muốn cho anh thoát ly gia đình” thì Xuân Phượng đã nuốt nước mắt “tiếp tục đi theo Đoàn Tuyên Truyền Kháng Chiến, tiếp tục chọn con đường thoát ly gia đình”. Một lần nữa, lòng người ly tán!

Đó là lần sinh con đầu lòng của Xuân Phượng giữa rừng núi hoang vu, cô độc, thiếu thốn, hiểm nguy: “một mình tôi nằm lại trên con đò rách nát với hai vợ chồng người chèo đò đã lớn tuổi (…) Năm ấy hai mươi tuổi đầu, đẻ con so, xung quanh không có ai. Tôi muốn chết. (…) Tiếng khóc oe oe vang lên giữa sông. Đứa con đầu lòng của tôi. Bác lái đò bẻ một mảnh nứa trên mui đò cắt rốn cho con tôi” (tr71).

Đó là chuyện Xuân Phượng mò mẫm đỡ đẻ cho một sản phụ trong lòng địa đạo Vĩnh Linh, một “mê cung trong lòng đất” với “bóng tối mịt mùng vây quanh” và tiếng khóc đau đớn, tuyệt vọng của người phụ nữ sinh con lần đầu trong hoàn cảnh không thể ngặt nghèo hơn, giữa mưa bom bão đạn: “đỡ đẻ không đèn, không phương tiện cấp cứu, không nhìn rõ mặt sản phụ”. Nhưng rồi vượt lên tất cả những éo le, khốc liệt ấy “bật vang lên tiếng khóc oe oe của đứa trẻ sơ sinh, hòa với tiếng khóc nức nở của người cha” (tr 158). Sự sống bật mầm kiên cường ngay ở nơi tưởng như chỉ có đổ máu và cái chết đang rình rập từng giây. Sức mạnh Việt Nam, ý chí Việt Nam là thế!

Đó còn là hình ảnh một em bé Vĩnh Linh chín tuổi, hồn nhiên ngồi trên đầu xe tải với đồ chơi là một khẩu súng thật: “dáng người đậm, chắc, da nâu đen, không để ý gì đến chúng tôi, em đang tháo lắp thành thạo một khẩu súng AK” (tr164). Chính cậu bé bé xíu có ”hai chiếc răng khểnh làm lộ một nụ cười dễ thương” ấy đã “giúp bộ đội đặc công phá được một sân bay trực thăng” với cái cách cũng hồn nhiên, thơ trẻ vô cùng: “Các chú bộ đội muốn phá sân bay trực thăng, cháu liền cùng với hai bạn khác đi vào khu vực sân bay giả đò chơi đánh khăng. Thân của cây khăng dài đúng một mét. Bọn cháu đánh ra xa rồi đo, đo từ đầu đến cuối sân bay, cả chiều dọc lẫn chiều ngang rồi về báo với các chú bộ đội. Bọn Mỹ không nghi ngờ chi hết. Sau đó các chú bộ đội tính toán và bắn pháo cối vào chính xác, phá nát cân bay. Cháu được tặng Dũng sĩ diệt Mỹ” (tr 164, 165)…

Cuộc đời Xuân Phượng với nhiều ngả rẽ bất ngờ, từ khi làm thành viên của Đoàn Tuyên Truyền Mặt trận khu C, sang Quân Y Vụ Liên Khu 4, làm chế tạo thuốc nổ, làm báo Công Tác Thóc Gạo, làm Trưởng phòng khám Nhi khu Ba Đình, tháp tùng đoàn làm phim nước ngoài vào mặt trận, trở thành đạo diễn phim…vv. Ở bất cứ “khúc quanh” nào, ngành nghề nào, bà cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, kể cả những lúc do bất đắc dĩ mà “mang lấy nghiệp vào thân” chứ không còn sự chọn lựa nào khác. Điều này vừa cho thấy sự ‘đa tài, đa ứng biến” trong con người bà, vừa thể hiện được gương mặt của cả dân tộc trong những năm tháng khói lửa chiến tranh: luôn luôn nỗ lực, luôn luôn ứng biến, chịu đựng được tất cả mọi hiểm nguy gian khó, kiên cường và mạnh mẽ tồn tại để vươn lên và chiến thắng. Đó là “qua một giọt nước nhìn thấy cả đại dương mênh mông”.

Giá trị của “Gánh gánh gồng gồng”, như tôi đã nói, là vượt lên trên những tự sự, ghi chép về cuộc đời của một cá nhân cụ thể để soi chiếu một cách chân thực, sinh động và sáng rõ gương mặt của cả dân tộc, cả Tổ quốc trong những thời kỳ lịch sử đáng nhớ nhất. Bởi thế, song hành với sự ngưỡng mộ, cảm phục tài năng, nhân cách, ý chí nỗ lực của nghệ sỹ Xuân Phượng là niềm tự hào, hân hoan, là những khâm phục đến kinh ngạc đối với thế hệ cha anh – những người viết tên Tổ Quốc lên bản đồ thế giới bằng mồ hôi, xương máu của chính mình.

Là đạo diễn phim tài năng, nên hồi ký “Gánh gánh gồng gồng” của Xuân Phượng cũng được kết cấu như những thước phim đầy ám ảnh, có chồng mờ, có đan cài ký ức – hiện tại, có điểm, có diện. Ngôn ngữ văn chương của bà cũng như ngôn ngữ điện ảnh, kiệm lời, kiệm chi tiết mà đầy sức nặng, có những hiệu ứng “tạo sốc” – những cú sốc thẩm mĩ đáng nhớ. Cả cuốn hồi ký cũng chính là một cuốn phim tư liệu với ngồn ngộn chi tiết có thể người đọc chưa gặp trong bất cứ cuốn sách nào. Những tư liệu vô cùng quý giá, đặc biệt là về chuyện ngành làm phim Việt Nam ra đời, trưởng thành trong chiến tranh như thế nào, tình cảm của những nhà làm phim, những nghệ sỹ thế giới đối với Việt Nam trong những tháng năm lửa đạn; sự đùm bọc đầy cảm động và những ân tình sâu nặng của các văn nghệ sỹ thời bao cấp khốn khó đủ đường…

Đọc xong cuốn hồi ký này, tôi rất tin, tất cả bạn đọc, cũng như tôi, đều cảm thấy trân trọng hơn những tháng ngày mình đang sống, trân trọng hơn những gì mình đang có trong tay, yêu Tổ quốc hơn, yêu những con người thân yêu quanh mình hơn, và vì thế sẽ nỗ lực để sống tốt hơn, đẹp hơn. Và điều quan trọng nữa là có thêm động lực để biết cách vượt qua tất cả mọi trở ngại trong cuộc sống!

Như thế đã đáng để bạn tìm đến “Gánh gánh gồng gồng” chưa?

Hải Dương, 27/5/2021
N.T.V.N

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm