TIN TỨC

Vũ Hồng ngân lên Đoản khúc số 8

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-09-24 11:36:40
mail facebook google pos stwis
3957 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – Mấy năm trước, nhà văn Vũ Hồng ra mắt tập thơ với tựa đề mang ý tưởng rất lạ và thú vị, dễ gây sự tò mò cho bạn đọc: Đoản khúc số 8. Lại còn chọn khổ tập thơ 19x19cm, khá ngộ nghĩnh. Suy cho cùng đây thường là cái tạng của người nghệ sĩ đa tài khi đặt tựa dù là truyện ngắn hay thơ. Bởi “Nghệ thuật là không lặp lại chính mình và không lặp lại của người khác”. Ai đó đã từng nói như thế.

Nhà văn Vũ Hồng

Tựa thơ anh có Bài ca trái ớt, Ký họa giọt mưa… Truyện ngắn có Một, hai ba và bốn, Móng tay vầng trăng khuyết, Tiếng chuông trôi trên sông… Chính truyện ngắn Tiếng chuông trôi trên sông hơn hai mươi năm trước đã làm nên tên tuổi của anh ở tuổi ba mươi, qua cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân Đội. Và, sau đó anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam trẻ nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long lúc bấy giờ. Truyện ngắn này đã được chuyển thể thành phim cùng tên do nữ Nghệ sĩ Nhân dân Kim Xuân thủ vai chính.

Anh có hơn hai mươi năm công tác biên tập cho Tạp chí Văn nghệ Bến Tre, (tiền thân của Tạp chí Văn nghệ Hàm Luông – Bến Tre) từng có nhiều nhiệm kỳ là Ủy viên hội đồng Văn xuôi và Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam rồi Trưởng Chi nhánh Tây Nam Bộ của Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Trong tập thơ này anh chọn đúng năm mươi bài. Trong đó có chín bài đoản khúc được đánh số, từ số năm đến số mười bốn. Đây là tập thơ thứ ba của anh sau tập Tháp bụi và tập Người phương Nam.

Anh thành danh cả truyện ngắn lẫn thơ. Thi phẩm Người phương Nam của anh được lưu giữ ở Phòng Văn học Ban văn nghệ của Đài tiếng nói Việt Nam hơn mười năm qua. Thỉnh thoảng được phát lại trong chương trình Tiếng thơ do nghệ sĩ Văn Chương diễn ngâm. Người phương Nam được xem là bài thơ khắc họa về tính cách, tâm tư, tình cảm của người Nam Bộ rõ nét nhất. Và tác phẩm này cũng được đưa vào giảng dạy phần văn học địa phương ở Bến Tre, nên càng có nhiều đối tượng bạn đọc biết tới. Đọc bài thơ Người phương Nam tôi lại liên tưởng rằng Vũ Hồng sáng tác tác phẩm ấy như đi dạo ngoài vườn hoa rồi nhẹ nhàng, thư thái với tay ngắt cành hoa tặng cho bạn đọc vậy. Bởi với tài hoa và khí chất hào hiệp, ngang tàng của Vũ Hồng rất “người phương Nam”:

Trăng phương Nam như tan trong sương
Người phương Nam cạn chén hồ trường
Từ giã kinh kỳ bạc lau lách
Đuổi thú hung tàn dạt biển Đông…

Người phương Nam đi thì cứ đi
Một chiếc ghe con có sá gì
Đời lắm phong trần nên lỡ hẹn
Không cần danh vị, bỏ vinh quy…

Hay với một khổ khác:

Người phương Nam say thì say trọn
Người phương Nam buồn thì buồn sâu
Nỗi nhớ cố hương còn chếnh choáng
Văng vẳng ầu ơ… giọng ví dầu

Thơ Vũ Hồng về sau dần “chảy xuôi” theo hướng trường phái thơ hiện đại. Khác với lúc đầu nhiều bài thơ của anh mang phong vị cổ thi, như bài Người phương Nam và nhất là những bài lục bát:

Trải qua mấy độ thu tàn
Ai đem sương giá rắc ngang lưng trời
Nỗi Hầu Vương, xót lệ rơi
Ngũ Hành Sơn ấy – bể đời trần luân
Tiếc cho một thuở tung hoành
Tự do giữa cõi non xanh sá gì
Mắc lời lừa dối từ bi
Để giờ ôm đá xanh rì cỏ rêu
(Tâm sự hầu vương).

Hay ở trường hợp khác:

Rượu chiều đón giá tịch liêu
Thẩn thờ vòm táo buồn hiu giữa trời
Cớ sao không nói một lời
Hồn như gần lắm cõi đời hoang sơ

Bạn về dệt trọn kiếp thơ
Thân tâm nhả kén mù mờ nhân gian
Thì thôi rượu cứ chảy tràn
Tay run, gió thoảng bóng nàng chìm đâu…
(Viết ở quán Cây Táo)

Trong cuộc sống anh là người quảng giao, cởi mở, xề xòa. Tuy nhiên, trong thơ anh rất chắt chiu, kỹ tính chưng cất từng con chữ như giọt rượu quí rót ra, ngõ hầu mang đến cho mọi người thưởng thức. Giọng thơ anh từ tốn, chậm rãi, trầm tích tính nhân văn dễ chạm đến trái tim người đọc đến ám ảnh, bồi hồi:

Ngoài phố
Rơi tiếng chim non
Đói lả

Hắn đến khu vườn lạ
Khẩu súng săn
– và hắn ra đi

Nửa đêm trở giấc
Tiếng chim lâm ly
Mất mẹ

Bên nhà khe khẽ
Vợ hắn cầu kinh
(Tiếng chim lạc loài)

Thơ kiệm ngôn và không giãi bày. Như thế mới khiến cho người đọc phải cùng tác giả “sáng tác thêm”. Như một thi hào Pháp đã từng bảo: “Tôi làm thơ chỉ làm một nửa, một nửa để độc giả làm”. Thơ của anh là thứ thơ để đọc chầm chậm bằng trái tim chứ không phải để đọc bằng mắt. Khi ngồi ở giảng đường đại học anh học chuyên sâu về ngữ âm học, nên anh bao giờ cũng chủ động tổ chức ngôn từ cho thơ có tiết điệu, nhạc tính du dương. Dù là thơ tự do hay thơ văn xuôi. Cũng như thơ lục bát của anh cũng không hề có những chữ bị ép vận.

Vũ Hồng thơ cũng như văn tuy người đọc không bắt gặp nhiều tứ lạ, song ý và tình thì vô cùng chan chứa. Đặc biệt đều có giọng sang trọng như nhà văn Đỗ Chu từng khen ngợi, khiến cho người đọc hình dung ra một tài tử hào hoa, lịch lãm điều đó cũng không sai:

Tiễn bạn chiều vàng rơi bến sông
Người đi hồ hải cõi non bồng
Ngàn lau tóc trắng hong sương khói
Nhà có buồn tênh, ai ngóng trong
(Tiễn bạn)

Hay ở trường hợp khác, cảnh huống khác giọng thơ buồn buồn nhưng không kém sang trọng khi đề tặng Kim Ba:

Đêm quê trăng thức đầu thềm
Căn nhà nhỏ nép bên triền sông con
Bóng người đốt rạ héo hon
Như đàn dế cũ nỉ non chân đồng…

Chuông chùa xa giọt trầm buông
Mấy vì sao mảnh rơi lòn mái quê
Thì thôi khói rạ tái tê
Lim dim làng mạc bốn bề quạnh hiu…
(Đêm quê)

Tuy nhiên, bên cạnh, Vũ Hồng cũng có những câu thơ ngồ ngộ, khiến người đọc vò đầu bứt tóc. Chẳng hạn như: “Ô hô, dòng sông sinh thành/Ô hô, dòng ông hùng anh…”. Hay: “… Cắm câu mò cá tình đầu…”

Nếu đúng là thơ thì bao giờ cũng có độ ngân – Ngân lên tiết điệu, đa tầng, đa nghĩa khiến cho người đọc bị ám ảnh, bâng khuâng một cách ngọt ngào, thú vị. Thế nên có viết mãi cũng không cùng. Lại tập thơ Đoản khúc số 8 của Vũ Hồng đến những năm mươi bài, mà viết cho cạn tỏ là điều khó mà đạt tới sự mong muốn của tác giả lẫn bạn đọc. Bên cạnh còn tùy vào giác độ của từng người cảm thụ, tiếp cận ở giác độ khác nhau.

Đoản khúc số 8 của Vũ Hồng không có những tác phẩm “còn trinh” (chữ của Huy Cận) nhằm thỏa mãn sự chờ đợi của bạn đọc. Hầu hết anh tuyển chọn những bài thơ của những tập thơ trước. Tiếc quá! Chẳng lẽ anh tắt tỵ lâu đến vậy chăng? Nhưng không, mấy năm trước, sau khi đi Hàn Quốc về anh có đăng nhiều bài thơ theo thể… ký sự, đọc cũng thấy là lạ, thích thích.

P.B.A.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm