TIN TỨC

Chữ của Dạ Ngân | Lê Hoài Lương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-30 09:22:49
mail facebook google pos stwis
2111 lượt xem

LÊ HOÀI LƯƠNG

“Bao giờ ti vi cũng cho thấy một hình ảnh biển người. Không gì khác hơn. Muốn xem nhiều hơn cũng không có, muốn nhìn sâu hơn cũng không thể. Và chính vì vậy mà họ không giống ai trên thế giới này. Thật là một đất nước bí ẩn. Bí ẩn hay cá biệt hay dị biệt, hay dị dạng? Hoặc là một biển phụ nữ áo hồng váy xòe vẫy hoa hát múa. Hoặc là một biển trai lính sống áo màu cỏ rầm rập rầm rập ghê răng. Như cố ý, như mô hình, như rô bốt. Xếp đặt quá thành khó tin, trình diễn quá thành khả nghi và đồng phục quá thành phi nhân là cái chắc”. (Đi hàng một). Với lượng chữ không nhiều ấy, người đọc hầu như đã có hình dung căn bản nhất về một đất nước, một mô hình xã hội. Và nhất là, cộng đồng ấy có thực sự được xây dựng vì lợi ích của con người như nỗ lực của hầu khắp trên thế giới hay không. Sao một đoạn văn ngắn lại có thể chuyển tải được nhiều thông tin và nhận thức, cảm xúc vậy? Nó tuyệt nhiên không có bất kỳ từ ngữ nào khó hiểu, từ ngữ phô diễn “trí tuệ”, “cao siêu” nào. Nó bình thường như ngôn ngữ thường nhật. Nhưng chân xác, vừa đủ, điều muốn mô tả. Và tỏa ra ánh sáng của trí tuệ.

Đó là chữ của nhà văn Dạ Ngân, một đoạn trong hàng trăm tạp bút của bà. Cũng văn phong ấy, chữ nghĩa ấy.

Hoặc đây là đoạn văn trong Con chó và vụ ly hôn, một truyện ngắn khá “đình đám” của bà, thời đầu cầm bút: “Chị còn yêu anh không? Chắc là còn. Trước đó, hồi mới cưới nhau, chị đã yêu anh, tình yêu rạo rực của lứa tuổi thấy cái gì cũng đẹp, lứa tuổi dễ vừa ý với mình và với chung quanh. Anh và chị đều mê mẩn khám phá nhau. Vài năm sau, chị có thất vọng đôi chút nhưng vẫn yêu anh, tình yêu tự nhiên của người phụ nữ đối với người đàn ông làm chủ thân thể mình, tình yêu bổn phận đối với người tạo ra đứa con mình, tình yêu ấm áp và bao dung đối với những cái tốt và cái xấu mơ hồ trong anh. Và yêu những kỷ niệm”. Các cung bậc thay đổi của “yêu” được diễn tả thật dung dị, đầy thuyết phục. Hoặc một truyện ngắn khác gần đây, khi bà đã rất danh tiếng, Ai người Hà Nội, cũng chuyện tình cảm nhưng không phải suy gẫm về nó, mà là những tinh tế trong đối thoại, va chạm, tâm lý, tâm trạng: “Tuần trăng mật năm sáu mươi sáu ấy, lần đầu tiên “theo anh ta thì về” ấy, khi hai người nhảy xuống từ một chiếc xe đạp ông mượn ở ga Vinh và đối mặt chiếc cầu treo, cô vợ thất sắc, không ngờ, thấy như bị chơi khăm./ –Anh dân miền núi, ư?/ Người chồng cười ngất, sảng khoái, tự đắc:/ - Miền núi thì sao nào?/ Cô vợ, nghe như mình vừa vấp một hạt sạn, hạt sạn đầu tiên trong cuộc hôn nhân của mình”. Rồi đoạn sau, tiếp diễn: “Gì cũng nhất, mở miệng ra là con cá lá rau tình người đều nhất nhưng người đỗ đạt thì không chịu quay về. Mỗi khi bà nói toạc ra với ông ý nghĩ ấy, ông thường cau mày không chấp và quay sang mô tả gió Lào để bà tự hiểu. Đây rồi những khóm tre bảo vệ của từng nhà, thứ tre mà ông bảo đã cứa vào nhau trong gió ngày hè và tự phát hỏa. Thảo nào! Thảo nào cái gì? Ông lừ khừ đay lại. Bà ý tứ làm thinh, nếu bà nói thêm về cái tính hay phát hỏa thì giữa hai người có âm thanh súng ống chứ không chỉ là sự va chạm của những hạt sạn”.

Tính cách nhân vật, cụ thể, rặt kiểu “đồ Nghệ” giỏi dang, khó tính; sự ấm ức và thấu hiểu, dung hòa của người vợ, đã hiện lên sinh động, thú vị trong đoạn văn phối hợp nhiều tạng kỹ thuật của truyện ngắn. Nó bật ra cuốn hút, giản dị, tài tình, bằng thứ ngôn ngữ có sẵn, chỉ việc xếp vào đúng chỗ.

Hãy khoan nói chuyện tư tưởng: sử dụng chữ chân xác, đắc địa, là một biểu hiện rõ rệt của tài năng văn chương. Còn “đẻ” chữ mới cho một tiếng nói, chữ viết, như kiểu đúc kết sự nghiệp sáng tác vĩ đại của Pushkin nâng tầm đáng kể kho từ vựng tiếng Nga chẳng hạn, thì hoặc là thiên tài hiếm hoi, hoặc còn nhiều hệ thuộc vào sự phát triển của ngôn ngữ ấy, thời điểm ấy. Nhưng đó là chuyện khác.

Tôi muốn nói đến những cây bút sính chữ, nhiều khi thiên về lớp vỏ ngôn ngữ, khoái trá tìm thấy chữ độc, lạ như chơi chữ, trình diễn chữ. Có tài thì thành phong cách, một thời tán tụng kiểu Nguyễn Tuân; làng nhàng thành ra điệu đàng, múa chữ, như khoe mẽ, nhưng che giấu sự cạn cợt ý tưởng.

Cổ nhân có câu “công dục thiệt kỳ sự tất tiên lợi kỳ khí”- người thợ muốn làm ra sản phẩm tốt phải có đồ nghề tinh xảo. Công cụ của nhà văn là chữ, tất nhiên bạn có thể coi ý tưởng cũng là công cụ, nhưng chữ là phương tiện chuyển tải. Nhiều người viết “không tới” thường bị nhận xét “thiếu chữ”, “không có chữ”. Bởi cứ theo lối mòn thiên thu, những “dòng sông đỏ nặng phù sa”, những “hoang hoải”, những “nhân văn”…, quả đáng chán. Làm gì có chữ sang, chữ hèn; chỉ có ngôn ngữ học thuật, hàn lâm, ngôn ngữ đời sống, dân dã, bụi đời, phương ngữ…; xài đúng chỗ là hay, ngược lại là kém, là lạm chữ. Đôi khi chữ bị ghét, bị kỳ thị một cách oan uổng, thậm chí nhiều người né tránh không sử dụng, tìm từ khác như gần đây cư dân mạng chế giễu “hoang hoải” chẳng hạn…

Thực ra về căn bản, chữ là trí khôn muôn đời, là kho tàng sẵn có, vốn thường vượt tầm chữ một nhà văn. Vấn đề là biết sử dụng thế nào cho theo kịp thực tế cuộc sống. Tôi hình dung cách dùng chữ của nhà văn Dạ Ngân như nhặt những vỏ ốc các loại trong rổ ốc quen thuộc; bà chỉ việc nhặt ra, đúng loại mình cần về hình dáng, màu sắc, và sắp xếp thành hình khối, thành bức tranh cuộc sống hay thân phận con người. Không cần đi tìm ốc lạ, ốc hiếm, ốc hóa thạch đâu đó... Quen về chất liệu, nhưng khác biệt một sản phẩm.

2.

Đề tài phụ nữ đeo đẳng trong những sáng tác của Dạ Ngân: những người phụ nữ, người mẹ, người vợ, con gái,… trong truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn; thời chiến tranh, thời hậu chiến, thời điểm khó nghèo bao cấp, hay xu thế hiện đại. Như chắt lòng mà viết. Trong mắt con gái, bà mẹ mọi thời không bao giờ là trẻ và lạc hậu; trong xu thế cứ tiến về phía trước, “Ai chạy thì chạy, chỉ có các bà mẹ thì chậm rãi theo sau con mình, không ai có thể ngang bằng được với chúng. Vì đó là quy luật”. Nếu vậy, cũng là chung chung, có thể ở bất kỳ trang viết nào. Nhưng Dạ Ngân tiếp tục phát triển, người mẹ luôn tự ý thức và gắng gỏi không ngừng, một lòng mẹ bao dung, một bền bỉ phi thường, in dấu sâu đậm vào tâm trí người đọc như cách diễn đạt này: “Chính vì vậy mà không ít lần đứa con lớn tiếng với má việc này việc kia mỗi khi đụng chạm đến những thứ thuộc về kỹ năng của cuộc sống đã khác xưa nhiều. Má không chấp, má không để bụng, má thấu hiểu hơn ta tưởng bởi vì má vẫn âm thầm cố gắng để tiếp cận và thích nghi với cái bậc thềm mà đám con đang khiến má phải ngước nhìn”. (Ngâu và mẹ). Nhà văn nữ nào cũng là đứa con, rồi làm mẹ. Đoạn văn cho thấy bà đã nhập cả hai vai, là con, là má. Chữ là sự thấu hiểu, là tấm lòng. Hãy đọc lại câu sau của đoạn văn sẽ thấy nó thật lung linh, bởi được viết bằng thứ ngôn ngữ giản dị nhất mà mẫn tiệp nhất!

Phải rồi. Chính ánh sáng trí tuệ, độ sắc sảo trong mỗi nhìn nhận, suy gẫm vấn đề khiến những con chữ bình thường đã gánh vác sức nặng nhiều hơn ngữ nghĩa chính nó. Khả năng của chữ thật kỳ diệu.

Một ví dụ khác. Khi khó xử trước việc mình sắp đi dự lễ tang một nhà văn đáng kính, gặp chuyện bị níu chân: chủ căn hộ tầng dưới nhờ ở nhà để thợ “quá bộ” vô sửa cái mái ban công, ngày mai chính rằm “tụi cháu còn cúng bái ông bà tổ tiên với cô hồn phù hộ cho nữa” - cái lý do rất chính đáng. Nói việc mình phải có mặt ở đó giờ đó, và có biết nhà văn Sơn Nam không, cô gái lắc đầu, rồi chống chế, “có nghe loáng thoáng”, bà hạ bút: “Một người gần gũi với cư dân Sài Gòn như Sơn Nam mà không thật được nhiều người biết đến sao? Người bình dân họ bận bịu hay vốn dĩ bạc bẽo?” (Khoảng trống kỳ nhân). Cũng tạp bút này nhắc tới trường hợp khác, về mấy bà giới bình dân một chung cư ngoài Hà Nội: “Mấy chục năm đi về với nhau một cầu thang mà họ thực sự không biết người đàn ông lầm lũi cô độc kia là giáo sư triết học Trần Đức Thảo. Cho đến hôm nhà đài ầm ĩ báo tang ông. Các bà hàng xóm ấy hồn nhiên: “Người ta cũng Đức Thảo mà vang danh thế còn ông Đức Thảo chung cư nhà mình thì cứ như một lão dở hơi kiết xác!” Sự việc ở hai thành phố lớn nhất nước là vậy, và cảm giác những con đường “côi vắng” khi không còn họ đi về; cái “khoảng trống” không sao bù đắp nổi khi thiếu bóng những kỳ nhân… Bà đã viết những dòng thấm thía, sâu hút: “Có những người thực sự vang danh nhưng họ không thể là kỳ nhân. Chừng như sự cô độc thường trực gần với lập dị của nghệ sĩ mới làm ra một kỳ nhân. Cô độc mà vẫn nghe thấy chúng sinh, điều đó mới khó, mới thật phi thường. Như Solzennhitxyn luôn cô độc trên đất Mỹ. Như Trịnh Công Sơn cô độc với mọi thứ thuộc về đời thường. Như Bùi Giáng cô độc với cái xác phàm của mình. Như Trang Thế Hy sớm an lòng với vườn dừa để khỏi xà xận chốn trường văn trận bút. Và như Sơn Nam. Bởi vì bản thân sự cô độc của họ đã là tuyên ngôn, là nhân cách”.

Khó thể viết hay hơn. Vì mỗi bề ngoài chữ nghĩa bình thường nhất ấy như đã được tinh luyện như luyện đan. À không, không phải viên kim đan lấp lánh sắc vàng, là tim là óc chưng cất, từng giọt, đặc sánh. Sức lay động ngôn từ thật kinh sợ!

3.

Người đọc nhanh chóng bị chữ nghĩa gây cảm giác, nhưng điều đọng lại luôn phía sau chữ: vùng không gian âm hưởng, cái xôn xao dư ba thường hình thành muộn hơn: nó là ý, nối dài. Khi mải mê tìm kiếm vẻ ngoài có vẻ đỏm dáng, chải chuốt của chữ, chữ cũng có hiệu ứng về hùa với nhau, nối tiếp sánh vai, cái sâu xa muốn đạt tới thường đứng nánh sang một bên hoặc biến mất. Người ta nói tới văn chương tối giản, không chỉ kiệm lời mà còn là bình thường lời, sao cho điều kỳ vĩ nhất, sâu sắc nhất được diễn tả dung dị nhất, dễ hiểu nhất. Những nhà văn lớn của thế giới đều viết như vậy. Những nhà văn thành công trong nước đều đi qua tâm lý muốn thể hiện chữ nghĩa thời đầu cầm bút của mình.

Chuyện đề tài, tư tưởng trong văn xuôi, tức cái vấn đề hướng tới ấy, cũng là loay hoay tìm kiếm của nhiều người. Qua rồi cái tốt cái xấu đơn giản thời địch ta, chính diện phản diện phân minh, văn chương đi sâu vào khám phá con người đa diện, đa nhân cách, vào những va đập sáng tối; vào các vấn đề có tính triết luận, về ý thức hệ, về bản ngã; vào văn hóa, bản sắc… Riêng đề tài chiến tranh và hậu chiến còn được khai thác nhiều, đương nhiên cũng ở góc nhìn “có độ lùi” về thời gian. Tâm thế thời đại cũng thay đổi, với tất cả.

Có thể thấy, Dạ Ngân trước sau viết về những điều bình thường của đời sống quanh mình, về chính mình- người phụ nữ bị cuốn vào cuộc chiến rồi hậu chiến; về thế hệ mình; về tình yêu, gia đình, những nỗi niềm, trắc ẩn trong cuộc sống; về thiên chức làm mẹ, làm vợ… Nói chung, những va đập trực tiếp vào “cái tôi” bị cuốn vào dòng chảy thời đại, bị động và chủ ý mỗi quan sát, tư duy, với sự am tường nhất. Bà tìm thấy cái bình thường cao sâu ngay chính từ những quan sát, những trải nghiệm sống của mình.

Cái hấp dẫn của văn Dạ Ngân không phải từ “vấn đề” nó nói, mà từ cách nói. Nên các trang viết của bà có thể đọc đi đọc lại nhiều lần vẫn cuốn hút, vẫn xúc động. Chữ đã làm nên điều ấy.

Như chuyện một trung đội trưởng già dặn trận mạc được cấp vũ khí chống tăng mới là quả pháo dù, quá thích, có thể chơi giáp lá cà với bọn tăng kiêu ngạo, đã cùng mấy chiến sĩ trẻ khác tò mò “khám phá”, nó phát nổ. Tai nạn thế này không ít trong chiến tranh. Có gì đáng nói đâu giữa cuộc chiến tàn khốc những máu xương? Nhưng tiếng nổ ấy với Dạ Ngân là đáng nói, có cách nói để thành truyện ngắn Một lát cắt. Cái chết chưng hửng, cái tổn thất vô lý. Lại trong bối cảnh yên bình hiếm hoi, có thời gian để loay hoay “thán phục” người nghĩ ra loại vũ khí này, và… Hãy đọc hai mảng đối lập: “Sáng sớm hôm ấy không có máy bay trinh sát, không có bom bừa cũng không có trực thăng đổ quân. Nghe thấy tiếng không gian giãn ra thư thái. Nghe thấy tiếng cỏ reo trên cánh đồng để hoang, nghe thấy tiếng những con cá sống sót đớp mồi trong mương liếp, nghe thấy tiếng con sông thong thả rì rầm”. Và: “Một tiếng nổ. Giữa trời quang mây tạnh đã vang lên một tiếng nổ kinh hoàng. Những tiếng nổ từ người mình gây ra bao giờ cũng mồ côi, đanh và gọn như vậy. Nó báo hiệu những tổn thất thê thảm. Những chàng trai khát khao khám phá đã tan tành”. Các thứ “tiếng” của khoảng lặng trong chiến tranh và tiếng nổ “mồ côi, đanh và gọn” từ người mình gây ra, là cái hoàn chỉnh lưu dấu của chữ. Chứ không gì khác. Đôi khi một chi tiết ngang tầm một hình tượng. Và thường khi chữ quyết định giá trị chi tiết ấy!

Và đây, cảnh những người vợ lính Miền Tây, tất tả kiếm ăn, hướng về những chuyến thăm chồng nơi mặt trận: “Sáng sớm thức dậy dội phân heo xuống sông, nước đó múc lên, giặt giũ và lắng phèn nấu ăn. Không kịp chờ xem cứt người và cứt heo trên dòng chảy ấy có trôi xa chưa, ai cũng quáng quàng cơm nước để còn phóng xuống vỏ lãi về với ruộng vườn trồng tỉa thu hoạch. Chân đi như chạy, tay làm như máy, miệng nhai, để có cái vào bụng nhưng bụng thì luôn nhớ đến người đang ở rất xa”. (Vợ lính). Nhanh, gãy gọn, những câu văn có độ dồn nén đáng ngạc nhiên để theo kịp thực tế khắc nghiệt. Và bật ra tâm trạng.

Còn khi cần, nó hòa trộn các biểu hiện xốc nổi, cấn cá, và mềm mại cả quyết… Có thể nói bất kỳ trang văn nào của Dạ Ngân cũng luôn hướng tới sự thấu đáo mỗi trạng thái, tình huống, mô tả, và nhiều suy gợi. Là bởi, với bà dường như chữ như một sinh thể có đời sống của nó: nhà văn cư xử với chữ bằng sự cẩn trọng, nâng niu. Không thừa thãi, phí phạm. Nó chân xác và tinh anh nhất có thể. Nhưng thật gần gũi, thành thật với cảm xúc và không xa lạ với người đọc.

4.

Dạ Ngân có dụng công không? Có, đương nhiên. Dụng công lớn nhất là xóa dấu vết dụng công, trong bày tỏ ý mình và chữ. Cái tinh tế của Dạ Ngân trong sắc sảo, và dữ dội. Quyết liệt mà nhân tình, chính trực. Dấu ấn của gái thời loạn chăng: mười bốn tuổi đã ngấm đủ những ly tan, lăn lộn cùng chiến cuộc? Hay tính cách người Miền Tây ngay thật, hòa ái, trượng nghĩa?

Có lẽ bà gần gũi và yêu tự nhiên, được nuôi dưỡng trong bầu dưỡng khí miệt vườn từ nhỏ: sắc mạ đẹp mê tơi, những cây ổi trong vườn hương hỏa, mênh mang sông nước, những khóm lục bình, những chiếc vỏ lãi, bao nhiêu con vật thân thiết: chó, mèo, le le, rồi bầy trâu rừng, đàn sư tử, con linh cẩu trên ti vi, cả con cóc xấu xí… Và cái nôi miệt vườn ấy được ông nội - một lưu dân gốc gác từ Bình Định - dắt dìu, ngấm đẫm sự hàm ơn đất mới: “Ông nhắc nhở: phù sa kia mới đáng ham thích, phù sa là kho báu, phù sa là ngọn nguồn, con người chỉ có thể đắp đập, đặt bộng, lên liếp, be bờ chứ không tự làm ra được phù sa, vì vậy mà con người cần phải tri ân trời đất chứ đừng có hờn trách, lại càng không được kêu ca, oán thán”. (Nước chum). Hay cúi xuống, để tri nhận sâu xa từ một sinh linh lành hiền như con cóc: “Lắm lúc ngồi viết bỗng thấy có một chiếc lưỡi nhỏ đang dọn muỗi dưới chân mình, êm ái, dễ chịu một cách kỳ lạ. Đưa tay đỡ cóc lên, nhìn vào đôi mắt hiền từ của nó, chợt hiểu vì sao ông trời còn phải sợ. Vì nó quá hiền, chưa thấy cóc hại ai, trừ lũ muỗi. Hiền như cóc mà phải nổi giận tức là ông trời cũng nhiều lúc tác oai tác quái lắm”. (Con cóc ở hốc nhà).

Đọc Dạ Ngân để tin yêu điều thiện, cái đẹp, cái cao cả: “Đã từng biết trên mây xốp là trời xanh thông thống, mọi ý niệm về trời về Thượng đế đều dễ lung lay, thậm chí ngoái nhìn từ ngoài bầu khí quyển thì quả đất quá mong manh. Thế nhưng mây trắng ở Chùa Đồng lại khiến ta tin trời cao đất dày và có sự gột rửa”. (Chỗ tin yêu). Và đau đớn, phẫn nộ, khi con người cư xử với đồng loại, với thiên nhiên tệ mạt: “Đó là màu xanh của xã hội ăn chơi, mươi héc-ta đất chỉ để phục vụ một nhúm người, hạ dân không được bén mảng đến. Không hiểu vì sao đất của mạ lại dễ dàng biến thành đất của cỏ golf, dễ dàng đến mức ai cũng nghi ngờ sao người ta vẫn cần gạo và cơm mà lại nhục mạ đất đai như vậy?” (Nhớ mạ). v.v…

Tôi không có ý lý giải căn nguyên nào hình thành nét riêng biệt chữ nghĩa của nhà văn - việc bất khả và vô ích - nhưng tin rằng người nào yêu thiên nhiên bằng máu thịt và sự thấu hiểu, một tình yêu bất vụ lợi, hẳn đủ điềm tĩnh để tìm thấy những dung hòa tự nhiên nhất trong ứng xử. Kể cả với chữ. Thiên nhiên khác biệt nhưng theo quy luật, không cường điệu, không làm dáng. Chữ cũng vậy, tự tại và không khoe khoang.

Có nhà văn làm ta nể nang về độ uyên bác. Có nhà văn khiến ta kính trọng về nhân cách, về độ dũng. Có nhà văn khiến ta choáng ngợp vì quá gần với Thượng đế những sự thấu suốt lớn lao… Có nhà văn gợi trong ta lòng yêu mến. Chữ quyết định niềm yêu.

Tôi nghĩ, trang văn Dạ Ngân - dù viết thể loại nào, đề tài nào - đã chinh phục nhiều tạng độc giả, trước hết từ những con chữ điềm đạm ấm sáng và minh tuệ của bà.

Nguồn Văn nghệ số 40/2021

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm