TIN TỨC

Đọc KIẾM THƠ TRONG THIỀN của nhà thơ Lê Viết Hòa

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-04-15 17:57:16
mail facebook google pos stwis
1618 lượt xem

 XUÂN TRƯỜNG


Nhà thơ Xuân Trường tại buổi ra mắt "Kiếm thơ trong thiền" (ảnh: NH)

​​​​"An nhiên kiếm chữ trong thiền
Gởi vào đời nụ cười hiền trẻ thơ"

Thiền là hình thức nghệ thuật có tính tâm linh cao nhất; con người phải tĩnh lặng, vô ngôn, định tâm, và thoát ra khỏi những đa đoan của đời thường làm nhiễu loạn tâm trí chúng ta. Thiền được gọi tắt là Thiền na theo ngôn ngữ Ấn Độ là Dhyana. Tịch lự (lặng suy) nghĩa là trầm tư về một chân lý đạt đến ngộ và in sâu vào tâm thức chúng ta. Cũng có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tựu trung là xem xét mối quan hệ biện chứng giữa tĩnh và động, như một tiếng chuông thức tỉnh con người.

Cùng với sự phát triển của Phật Giáo, thiền đã ảnh hưởng sâu rộng vào văn học phương Đông, thấm đậm vào trong cuộc sống, cũng như văn học nghệ thuật, đời sống xã hội của người Á Đông. Đặc biệt là trong thơ Đường Trung Hoa, thơ Haiku của Nhật và thơ thời Lý, Trần của Việt Nam. Phật Hoàng Trần Nhân Tông và Thiền Sư Huyền Quang đã để lại nhiều áng thơ tuyệt tác cho nền văn học dân tộc.

Thiền giúp cho tâm thức chúng ta được giải thoát mà trở nên thanh tịnh; có như thế mới tập trung vào cảm xúc, trải nghiệm và sự tinh tế trong sử dụng ngôn ngữ để phát hiện những mới lạ trong cuộc sống vô thường mà trong lúc khác chúng ta không nhìn thấy được.

Thiền và thơ đều tập trung cao độ vào khả năng nhận xét sâu sắc của con người. Trong khi thiền giúp cho con người thanh tịnh, thì thơ sẽ xuất hiện qua cảm xúc và trải nghiệm của mình bằng ngôn ngữ. Cả hai đều đòi hỏi sự tuyệt đối và tinh tế trong việc xử dụng ngôn từ.

Đã từ lâu nhiều nhà thơ đã thực hành thiền để tìm kiếm cảm hứng, hình thành ý tưởng, khơi gợi hình tượng đẹp trong những phát hiện của mình. Vậy thì thiền sẽ giúp cho thơ bình tĩnh hơn, tập trung hơn, có nhiều khả năng đưa ra những cảm xúc sâu sắc hơn từ đó tác phẩm thơ của họ sắc nét hơn và tinh tế hơn. Nhiều Thiền Sư đã viết thơ để truyền đạt thông điệp của mình, sử dụng ngôn ngữ để truyền tải những ý tưởng tâm linh, khơi gợi cảm hứng cho người đọc. Thiền để làm thơ là phương pháp tu tập chứ không phải tu hành, nhưng nó hướng thiện. Dùng thiện tâm để hóa giải các mối quan hệ giữa con người với con người; với thiên nhiên và vũ trụ quanh ta. Mục đích là tìm kiếm cảm xúc, ngôn ngữ rồi nhập thế phát hiện những tồn tại trong cõi đời gây ra phiền toái đau thương cho con người, nhằm điều chỉnh, hướng con người trở về với nguồn cội yêu thương và lòng biết ơn trong sinh hoạt cộng đồng, cũng như hòa mình vào với thiên nhiên mà tồn tại trong cả sắc sắc, không không và sống thật đẹp trong cái quán trọ trần gian này.

Tôi nghĩ thiền và thơ có liên quan mật thiết trong việc xây dựng đạo đức con người, nó như là một thứ pháp chế được giấu bên trong tâm hồn để cho con người tự điều chỉnh mình trước mọi năng lực hành vi trong cuộc sống, ứng xử hài hòa với thiên nhiên. Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã dùng phương pháp tu hành để tiếp nhận cuộc sống, tiếp nhận những hiện thực tinh thế rồi giải mã để giúp xã hội tốt đẹp hơn, con người thoát ra được những khổ đau để được an yên hơn.

Thực hành Thiền có thể ở trạng thái ngồi, đi hoặc đứng; nhưng khi có ý tưởng, ngôn ngữ xuất hiện ta lập tức phải lưu lại không thì nó qua đi để cái mới xuất hiện. Do vậy thiền ở một số trường hợp là như ta đang làm thơ vậy!

Ở miền Nam trước năm 1975, đã có các dòng thơ Thiền trữ tình và triết lý của các thi sĩ: Quách Tấn, Phạm Thiên Thư,v.v… Nói thực ra thiền được đã là khó, mà thiền để có thơ hay lại càng khó hơn; do vậy mà phải công phu tu tập, tịnh tâm, tịnh lòng, khổ luyện, và bên cạnh đó cũng cần có cơ duyên, tinh khiết tâm hồn nữa.

​​​Chúng ta hãy nghe nhà thơ Lê Viết Hòa kiếm thơ trong thiền:

“...Bãi bồi lở bóng thời gian

La đà khóm trúc che ngang mặt ngày...”

Lâu nay tôi thường gặp các nhà thơ chạm được thời gian bằng cách đối thoại, thương lượng với thời gian, màu sắc của thời gian. Nhưng nay Lê Viết Hòa đã có một phát hiện mới đó là cái bóng của thời gian. Tôi nghĩ cái bóng thời gian đang bay trong cõi tâm thức của anh trong khi hành thiền và lưu lại bằng ngôn từ, giúp cho anh sở hữu một phát hiện mới đó là cái bóng của thời gian. Ở “Khóm trúc che ngang mặt ngày” anh đã diễn đạt được cái vô hạn của thời gian, chứ nếu dùng "che ngang mặt người" thì bình thường.

Trong không gian thiền của anh có cánh võng mây, có nhịp sóng đời lênh đênh, có mưa đan sợi nhớ, có tóc cài hoàng hôn, có sự tụ tan vô thường... đã đưa anh về cõi tâm thức nguyên sơ, mà an yên với nụ cười trẻ thơ nơi bắt đầu của sự sống. Tất cả anh đều hướng tới cái cội nguồn, cái chi sơ và bổn thiện để khơi gợi sự yêu thương, chân thành với nhau, trong cái nhịp điệu hối hả của đời này: “An nhiên kiếm chữ trong thiền / Gởi vào đời nụ cười hiền trẻ thơ” (trong bài Kiếm chữ trong thiền).

Hai biểu tượng được xuất hiện rất nhiều trong hành trình thơ anh là Dòng Sông và Hoa Sen:

Dòng sông nhân gian của anh đã chảy: “...Sự háo hức mạnh mẽ ban đầu của niềm đam mê vươn tới những chiêm nghiệm khám phá. Sự hồ hởi của buổi nguyên sơ cuốn trôi đi tất cả những rào cản, những định kiến cắm sâu vào gốc rễ để đưa phù sa đắp bồi yêu thương và lòng biết ơn nguồn cội vào con đường mà dòng sông đã chọn. Nhưng em ơi! cuộc đời không phải lúc nào cũng như ý mình mong muốn...”. Người em ở đây không phải là một đối tượng cụ thể nào; anh đã đưa ra để đối thoại với chính mình, mở ra cái vô hạn của thiên nhiên, nâng đỡ nuôi dưỡng cái hữu hạn đời người; cứ chảy hết mình những yêu thương, lòng thanh bạch và dâng hiến cho đời những hương thơm, những nguồn lực sống.

Người ta bảo hoa sen là loài hoa quân tử, nó thánh thiện thanh tao, sang trọng, thường xuất hiện ở nơi trang nghiêm, cung kính như chùa chiền, cung đình; tòa sen là nơi ngự trị của Đức Phật. Sen cũng là loài hoa thủy chung biết ơn bùn đất đã chuyển đổi trạng thái mà hiến dâng cho sen thơm ngát. Trong thơ, Lê Viết Hòa mê đắm sen, ngưỡng mộ sen, cũng có nghĩa là tâm hồn anh hướng đến tu tập phật pháp, hướng lòng đến thiền để tìm về cái tinh khiết, cái nguyên sơ, cái thủy chung, cái yêu thương nhau của con người và anh đã ngộ được nhiều điều ở hoa Sen:

Nhìn đóa Sen Hồng tôi cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng và thanh thản đến lạ...

Đóa Sen hồng tinh khôi trên bầu trời huyền ảo...

Tôi lạc hồn vào cõi mênh mông trời đất

Ở đó không có sự tị hiềm nhỏ nhen đố kỵ

Ở đó không có sự bon chen tranh giành vị lợi

Ở đó không có hận thù ganh ghét dối lừa

Ở đó không có khổ đau day dứt dằn xé..." (Đóa sen hồng).

Những cụm từ như: hư vô, hóa thân, trần ai, thoát thai, tinh khiết, thánh thiện, hiện sinh, lụn tàn, hồi sinh, khổ đau, day dứt, cam lồ, buồn đau, thánh thiện, luân hồi, ngã, vô ngã, vô cùng, kiếp này, cõi người, cõi mê, vô thường, lở bóng thời gian, tụ tan, trong thiền, nguyên sơ, phù du, cội xưa, phù vân, ba sinh, vô vi, vô ngôn, v.v… đã thể hiện trọn vẹn chất thiền trong thơ anh.

Tôi rất tâm đắc và trân trọng Lê Viết Hòa khi anh dùng cụm từ “Mẹ thiên nhiên”; hiện đại lắm vì ngày nay chúng ta đang đặc biệt quan tâm đến các vấn đề về sinh thái để hướng văn chương nghệ thuật góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ sự sống của nhân loại mà từ lâu con người đã nhẫn tâm tàn phá, đem đến không biết bao nhiêu khổ đau, hệ lụy cho con người.

Kiếm thơ trong Thiền, Lê Viết Hòa đã nhìn thấy bao nhiêu những oan trái, những khổ đau, những sân si, những bạo lực, tranh giành đang đày đọa con người. Bằng thơ anh đã mở lòng nguyện cầu con người hãy nối kết yêu thương, hãy tiếp nhận, kết nối lòng vị tha, để mọi tâm hồn được an yên, bớt nặng lòng trong cõi sắc không này.

“...Đi qua mấy cuộc thăng trầm

Câu thơ trầy xước lặng thầm mà thương

Còn đây bồi lở tấc lòng

Đục trong dòng chảy cuối đường rỗng không” (Lặng thầm mà thương).

Có thể nói Sen hồng đã ngự trị trong cái tĩnh lặng trâm hồn anh, chạm đến những cảm xúc lạ vừa mang tính trữ tình, vừa triết lý nhân sinh:

“...Mây

mây

mây

trắng ngút ngàn

Từ em miên viễn tụ tan vô thường

Ta về lưu ký mùi hương

Tịnh tâm kiếm chữ dọc đường nhân sinh”. (Sen hồng tịnh tâm).

Những câu thơ nhẹ nhàng, sương khói, bảng lảng, nhưng lại đưa ta vào một cõi mơ hồ đầy ám ảnh của thiên nhiên:

“...Giọt thu rớt nhẹ bên đời

Cuốn theo chiều muộn về nơi ngút ngàn

Gõ vào tĩnh lặng thời gian

Nhịp tim rất khẽ ngỡ ngàng thẳm sâu

hoặc là

“...Phố xưa sương khói miệt mài

Cuộn vào chiếc lá một mai hư gầy

Sắc thu vương vít bàn tay

Hương sen ươm nụ ngủ say giấc hồng” (Sắc Thu).

​​​Tôi xin dẫn hai bài thơ "Mái chèo" của Lê Viết Hòa và Thiền sư Thích Nhất Hạnh để ta chiêm nghiệm thêm chất thiền trong thơ hiện đại:

"Mái chèo" của Lê Viết Hòa:

“Ta chèo giữa bến bao la

Xuôi bao vạn nẻo đi qua cuộc người

Khi đáy sông lúc đỉnh trời

Thương tình vỡ giấc nữa đời mơ tan …

...Ta chèo mấy đoạn thăng trầm

Lăn tăn sóng gợi rì rầm cội sông

Hồ xưa nở đóa sen Hồng

Người đi xa buổi sầu đông rụng đầy…

...Người chừ mây trắng phiêu diêu

Ta gom câu chữ chắt chiu trong Thiền”.

Dòng Sông đời chứa cả bầu trời hay mái chèo của anh khua động đến trời, khua động đến cội nguồn của sông, làm cho sông thức tỉnh, chảy với trách nhiệm hòa quyện với thiên nhiên của mình. Chảy trong tình thương yêu, bồi đắp, nuôi dưỡng con người và sau cùng trong cõi yêu thương này, anh đã tìm được chữ cho thơ.

Và đây là "Mái chèo" của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh:

“Sáu chiếc chèo tay mang nhịp sóng

Đưa thuyền tách khỏi bến mê mờ

Qua ngàn lớp sóng trần xô đẩy

Hướng thẳng về nơi bản thể xưa” .

Mái chèo này cũng khua động cội nguồn thức tỉnh bản thể xưa, trong cõi tỉnh lặng ấy, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh cũng đã nhắc nhở con người hướng thiện, thoát ra khỏi mọi sân si để thương nhau. yêu lấy nhau.

Cả hai "Mái chèo" đều mang xu hướng nhập thế để nâng niu, yêu thương con người và cuộc sống.

Lê Viết Hòa đã dùng thể thơ lục bát truyền thống để chuyển tải cảm xúc và thông điệp của mình, do vậy đã làm xao xuyến người đọc, dễ tạo sự đồng cảm với mọi người. Âm thanh, nhịp điệu trong từng câu chữ như tạo ra không gian mời gọi tha thiết, gợi mở tâm hồn mọi người tìm cái chân thật trong cõi thiền.

Đúng vậy từ thế kỷ 15 những câu ca dao lục bát đã ru cuộc đời vất vả của dân tộc ta đến nay và qua thời hiện đại hãy còn nguyên giá trị của nó. Có thể nói, thơ lục bát là nơi lưu giữ tâm hồn dân tộc hiểu theo ý nghĩa nó là một phần của của bản sắc văn hóa dân tộc.

Cá nhân tôi phát hiện nhiều nhà thơ viết theo thể loại tự do hay thì bao giờ họ cũng có những câu lục bát tài tình. Bảo tồn và phát triển lục bát là trách nhiệm của mỗi chúng ta.

Thật ra nhập thiền để có thơ là không dễ chút nào, còn phải có cơ duyên, sự chiêm nghiệm, học hỏi và cả sự tinh khiết của tâm hồn. Chắc có lẽ cái thâm trầm của Cố Đô Huế, cái mùi hương sen quá khứ bên hồ TịnhTâm, cái êm dịu của Sông Hương, cộng với thuyết ngũ hành trong đông y và những bước chân trải nghiệm đã giúp anh tĩnh tại và tìm kiếm thơ trong cõi thiền.

Thiền trong thơ là vấn đề lớn của nhân loại, nó thiên lý bao la và vô cùng, tôi xin chia sẻ một số cảm nhận về tập “Kiếm thơ trong Thiền” của Lê Viết Hòa, chứ không thể nào đi hết cái chiều sâu của thơ và cõi lòng anh được.

Xin chúc nhà thơ Lê Viết Hòa an nhiên trong sáng tạo.

​​​​​​​​Sài Gòn, tháng 3 năm 2023.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm