TIN TỨC

Dòng sông tâm thức của Elena trong “Hạt bụi lênh đênh”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-08-25 15:07:12
mail facebook google pos stwis
1514 lượt xem

Trong những câu chuyện đan xen giữa thể loại tùy bút và truyện ngắn và tôi chọn 7 bài viết trong “Hạt bụi lênh đênh” để nói về “dòng sông tâm thức” của Elena đã trải qua .

Thiền sư Nhất Hạnh khi đề cập đến dòng sông tâm thức giảng rằng “Nhà triết học David Hume đã nói: “Thức là một tia sáng hay một chuỗi những tri giác khác nhau diễn ra liên tục với một tốc độ phi thường”. Các tâm hành biểu hiện và tiếp nối nhau như một dòng sông. Khi nhìn vào dòng sông, chúng ta nghĩ rằng dòng sông là một thực thể không bao giờ thay đổi, nhưng đó là do tâm thức của chúng ta tạo ra. Khi ngồi trên bờ sông, chúng ta thấy rằng dòng sông mà chúng ta đang quan sát bây giờ không giống với dòng sông mà chúng ta vừa mới xuống bơi lội. Heraclitus nói rằng chúng ta không thể tắm hai lần trong một dòng sông.

Trong quyển sách Evolution Creatric xuất bản năm 1908, Henri Bergson thường dùng thuật ngữ “kỹ thuật điện ảnh của tâm” (cinematographic mechanism of the mind). Khi xem phim chúng ta có cảm tưởng như có một câu chuyện thật đang xảy ra. Nhưng nếu kéo cuộn phim ra kiểm tra, chúng ta sẽ thấy chỉ có những bức tranh riêng lẻ nối tiếp nhau cho ta cảm giác có một thực thể tồn tại liên tục”.

Trong các câu chuyện kể của Elena ta cảm nhận sự biến chuyển không ngừng của tâm thức dù là trong im lặng. Một bà mẹ không sanh đứa con nào nhưng lại có sự thương yêu của hàng trăm đứa con người khác (mà theo nhà Phật là do nhân duyên cả). “Thế nhưng về sau thì bà cũng hiểu ra là bà còn có một niềm vui to lớn hơn nhiều: làm mẹ của hằng trăm đứa con. Bà đã nuôi dạy chúng, đã từng cạo trọc những mái đầu tí hon, chỉ chừa một nhúm tóc nhỏ, và dạy chúng vắt lên vành tai “và trong thinh lặng bà đã nghe âm thanh của niết bàn…” chính là khi đạt được trạng thái hài hòa trong vũ trụ quan Phật giáo. “Hãy quên bản thân và nghĩ đến tha nhân”, quên sự mưu cầu hạnh phúc cá nhân để chia sẻ và hòa đồng với người khác”. Ngày bà gặp lại một đứa con đã bỏ bà ra đi là ngày bà lìa bỏ cuộc đời này … trong hạnh phúc “Ôi, đã bao lâu bà chờ đợi phút giây này và lòng bà đang trào dâng một niềm hạnh phúc cho người con gái. Lòng bà bình yên và nhìn thấy tất cả niềm hạnh phúc và yêu thương của nàng sáng rực trong đôi mắt. Chẳng cần nói lời nào nữa, dù có là cái Tết cuối của cuộc đời, nhưng với bà đó là cái tết hạnh phúc nhất.”  Kho tàng của sự im lặng)

Hạnh phúc đó có thể là một chuyến đi lên Yên Tử với bao nhiêu khó khăn trắc trở vì đường sá, vì thời tiết. Bản thân tác giả trước kia cũng là một cô gái đua đòi mua sắm bỗng một ngày nghe lời rủ rê “Gặp nhau chắc sẽ vui lắm. Thứ bảy này mình đi ra ngọai thành đi. Lâu quá bặt tin… chắc có nhiều chuyện để kể cho nhau!” và rồi họ đã lên yên Tử, một ngọn núi thuộc tỉnh Quảng Ninh, và lấy cáp treo để lên đỉnh. Sau đó tiếp tục đi trên những con đường mòn đầy đá. Và rồi khi lên không nổi xuống không xong thì lại gặp mưa, giữa lúc tấn thối lưỡng nan “Bỗng tôi nghe từ phía sau lưng mình một người đang đến và một giọng đàn ông:- “Cố lên. Chỉ còn một chút nữa là đến đỉnh. Cô sẽ làm được!” và rồi, ngạc nhiên chưa! “Chúng tôi đã chinh phục độ cao. Và tôi cũng đã đến đây, bằng tất cả mọi nỗ lực, với đôi giày há mõm và áo quần ướt đẫm! Đó là một cảm giác tuyệt vời mà có lẽ tôi chưa bao giờ được trải nghiệm! …Tiếng nói của một người lạ mặt đã cho tôi cái sức mạnh mà trước đây tôi cứ tưởng là mình không còn nữa. Âm thanh đó còn cho tôi biết là trên đời này tôi không còn cô độc. Nghĩa là tôi cũng có thể có một phần hạnh phúc, tôi phải tin như thế.” Và tác giả cảm nhận sau chuyến đi sức mạnh của sự phấn đấu cho một tương lai tốt đẹp. (Trên đỉnh núi thiêng)

Tác giả còn đưa ta vào không gian của một chuyến đi Hà Nội vào đầu thập niên 1990 “để làm một nghiên cứu cho viện đại học Milano và tôi đã bị mê hoặc ngay bởi cái không gian bí ẩn của cố đô này.”  Bằng một vài nét chấm phá Elena đã bộc lộ cái hồn cốt của thủ đô Việt nam: “Có thể do cái lớp sương mù mỏng manh vào sáng sớm hay những chuyển động phơ phất của hàng liễu rũ bên bờ hồ Gươm hoặc những chiếc cầu vòng xuất hiện sau cơn mưa tầm tã và những tia nắng bắt đầu xuất hiện, đang chiếu qua những vòng cung của đền Ngọc Sơn và chiếc cầu Thê Húc sơn màu đỏ…  Nhưng chắc chắn là tất cả những điều ấy đã cho tôi cái ấn tượng Hà Nội là một thành phố đầy quyến rũ và bí ẩn”.

Tâm thức Elena còn lưu lại “vẻ đẹp của Hà Nội còn nằm ở những góc phố, nơi những cụ già ngồi phì phèo thuốc lá hay thỉnh thoảng rít một hơi thuốc lào để ngẫm nghĩ một thế cờ tướng dưới bóng một tàng cây hay dưới mái hiên trước một ngôi nhà nhỏ”. Và hình dung ra “tôi tưởng mình đang cỡi rồng bay trên thành phố, luớt qua khu biệt thự Pháp và những căn nhà thời thuộc địa được che chắn bởi những hàng rào và cổng vào bằng sắt trang trí theo kiểu Liberty của đầu thế kỷ XX … Giống như một giấc mơ giữa ban ngày. Tôi muốn mình được bay như một cánh chim vừa thoát khỏi lồng, lơ lửng trên những con đường thuốc với những dụng cụ chưng cất đang hâm nóng bát thuốc trường sinh hay cỡi trên lưng một con cá vàng bơi dọc theo sông Hồng” (Hà Nội, nét đẹp bí ẩn).

Một chuyện cãi nhau của hai vợ chồng cũng làm tác giả bồi hồi suy nghĩ khi nhìn hai con chim mớm mồi âu yếm nhau. Tác giả suy ngẫm về tình yêu của loài người khi so sánh với chim “Đó chỉ là bản năng? Cũng có thể… Nhưng tôi tin là tình yêu giữa hai con chim đó còn có điều gì hơn thế: Đó là sự quan tâm của chàng chim này đến cô chim kia, giữa chúng có một ý thức trách nhiệm mà ít khi tôi thấy trong quan hệ giữa những con người trong thời đại ngày nay”. (Tình yêu)

 Nhưng khi tác gỉả viết về tình yêu của chính mình, chị viết với tất cả sự sâu lắng của cảm xúc và trí tuệ từ những chuyện hôm qua, hôm nay và ngày mai…

Với thời gian em hiểu là cả hai ta đều rất cô đơn. Tất nhiên là chúng ta có hai hoàn cảnh khác nhau, đối với em là sự thiếu thốn tình cảm, còn anh thì rời bỏ quê hương, đang sống xa gia đình và cuộc gặp bất ngờ đó đã mang hy vọng đến cho nỗi cô đơn của nhau”.

Và họ đã vượt qua mọi trở ngại “… Em chỉ biết và nghĩ rằng, anh đã viết để nói cho em hiểu rằng, điều mà trái tim của chúng ta cảm nhận có thể sẽ là một tình yêu lớn. Và cái cô vũ nữ bằng giấy bóng ấy chính là quà tặng đầu tiên mà anh đã gửi đến em. Nhưng chắc có lẽ anh cũng không thể nào hiểu là đối với em bức thư và món quà nhỏ ấy đã quan trọng như thế nào! ”.

 Chị còn nhớ như in chuyện hôm qua “Nhiều lần anh nói đùa là anh đã cưới em vì em đã dạy anh nhìn những ánh sao trên bầu trời hay lắng nghe tiếng rì rào của biển và chuyển động cuả thủy triều, còn em thì nói yêu anh vì sự bền bĩ, tính kiên trì và bằng cách mà chúng ta đã gần gũi và chia sẻ cùng nhau trong từng cảnh ngộ vui buồn”.

Thời gian rồi sẽ trôi qua, nhưng không phôi pha và đẹp làm sao, vì cho đến hôm nay chúng mình vẫn còn bên nhau để nhắc lại những kỷ niệm về tình yêu ngày cũ. (Hôm qua và ngày mai)

Tình yêu ấy khiến anh phải bay vào tâm dịch để trở về với chị trong hoàn cảnh “dầu sôi lửa bỏng” lúc ấy. Đẹp và đáng trân trọng thay!

Có chuyện chị thay mặt cho thân phận một cuốn sách kể về hành trình lưu lạc “Trên kệ ở một cửa hàng lớn, người ta lồng tôi vào một chiếc bao nhựa, nhưng tôi không phải nằm lâu trong đó vì chỉ một ngày sau là đã có hai bàn tay háo hức kéo tôi ra khi chân anh chưa bước hẳn ra khỏi tiệm”. Có thể đó một cậu sinh viên ham mê vồ vập nhưng rồi có khi bị bỏ quên trên kệ “Cũng có thể là tôi sẽ nằm yên ở đấy mặc tình cho nhện giăng một thời gian nếu không có đôi bàn tay dịu dàng của một cô gái…” Rồi đột nhiên tôi thấy mình bị nhốt trong một chiếc thùng carton cùng với những vật dụng khác… cuối cùng tôi cũng được mang đến và nằm trong tay người bạn già. Tôi đã thấy sông, thấy biển, nghe được cả những hơi thở hổn hển, của đam mê và niềm sảng khoái trong các động tác ái tình. Và thế là thân phận bị quên lãng của tôi cũng chấm dứt. Để trở thành một người bạn và tôi như lại được sống thêm một lần nữa. (Đời sách)

Nhưng có lẽ câu truyện mà chị lấy làm tiêu đề cho tác phẩm mới đang kể “Hạt bụi lênh đênh- Vivere senza radici” khi nhân vật chính gặp một nhà sư tình cờ trong một chuyến bay. Phải nói thêm là bản thân nhân vật chính cũng là đứa trẻ mồ côi “Tôi là một đứa bé mồ côi, bị bỏ rơi ở một góc đường trong một thành phố nhỏ ở Á châu mà tôi không còn nhớ là đâu... Rồi một ngày, có một nhà sư từ xa đến chùa, lúc ra đi ông dắt tôi theo. Đó chính là sư phụ của tôi. Tôi đã học thật sâu về nỗi đau, làm thế nào để giúp mọi người sống khỏe mạnh thông qua thuật châm cứu, bấm huyệt và ngôn ngữ phù hợp để khuyên họ làm thế nào để vượt qua nỗi đau thể xác và khổ sở tâm hồn…Tôi không biết gì về sự ra đời của mình, tôi sống mà không có gốc rễ, tôi như một hạt bụi lênh đênh, bay từ châu lục này qua châu lục khác nhưng mỗi lần tôi có một cuộc gặp và giúp được một người nào đó thì tôi hiểu lý do vì sao tôi phải sống cuộc sống này.” Khi gặp vị sư già, anh để ý thấy “chiếc mũ lệch về phía sau và rơi xuống, để lộ ra mấy vết cháy hình tròn trên đỉnh đầu, tất cả đều tròn và bằng nhau nên không thể cho đó là những vết phỏng tình cờ.” Nhưng bất hạnh thay, anh bị rơi vào tình trạng đột quỵ và người ta đưa anh đến phòng cấp cứu “Tôi nằm một mình và lòng đầy lo ngại trong một căn phòng vô trùng ở bệnh viện John Hopkins ở Baltimore thuộc tiểu bang Maryland. Người ta đã mang tôi từ sân bay đến đây bằng xe cứu thương. Lúc tỉnh dậy thì bác sĩ cho hay là sau khi máy bay hạ cánh, vừa bước ra thì tôi bị té ngã. Có thể là một cơn đau tim. Các bác sĩ đã khó khăn lắm mới giúp tôi hồi sức, và bây giờ tôi đang nằm trong tình trạng cần theo dõi.” Anh luôn mang trong mình mặc cảm “là người không có quá khứ, tôi cũng sống mà không biết cội rễ nhưng tôi sống mà chẳng có ích gì cho ai, thật khác với vị tu sĩ khiêm tốn này” Và sau cơn mê sảng, anh gặp lại vị sư hồi nãy trên máy bay. Vị sư nói “Ông bác sĩ đang chữa trị cho bạn đã gọi cho tôi nhưng thú thật trước đó tôi không bao giờ tưởng là mình sẽ được gặp lại bạn. Chắc bạn đã trải qua nhiều đau khổ và lo sợ, nhưng bây giờ bạn hãy bình tĩnh nhé. Bạn không còn cô đơn hay chỉ một mình nữa đâu.”

Tôi không còn sợ nữa. Ông chính là người duy nhất mà tôi muốn gặp lại trong lúc này để từ giã, người anh em ạ.

Đó chính là lời nói cuối cùng của tôi và tôi đã vĩnh viễn rời bỏ phút giây ấy, để yên bàn tay tôi trong bàn tay nhà sư, trong khi từ đôi mắt của ông, dường như cũng đang có vài giọt nước mắt đang rơi xuống.”

 Câu chuyện kết thúc trong bi thương nhưng phù hợp với lẽ vô thường. Chúng ta nhớ những nhân vật của William Faulkner đều cảm nghiệm sự quyến rũ của bất hạnh trong “Âm thanh và cuồng nộ” (The Sound and the Fury), của suy đồi hay cái chết. “Hạt bụi lênh đênh “không có bi kịch như trong “Vàng trên biển đá đen” khi nhân  vật ở đây thấu hiểu cuộc đời trong ý nghĩa uyên nguyên của nó, trong tình yêu đời và “hiểu mệnh” nói như Jean Poullon “ Hiểu mệnh  là cởi bỏ mệnh “  Understanding destiny is its undoing “(Time and destiny in William Faulkner) khi nói như ai đó rằng tất cả mọi người, dù sang hèn, giàu nghèo, mạnh yếu, đẹp xấu… đều bình đẳng trước cái chết. Chúng ta đều mang bản án tử hình, chỉ có khác nhau về thời gian thi hành án mà thôi. Nếu hiểu giáo lý nhà Phật, thấu triệt lý Vô ngã, chúng ta hiểu vạn vật trên thế gian này chỉ do duyên hợp, chúng ta càng thấm thía lẽ vô thường của trời đất.

Con người có khác gì bông hoa. Lúc mới nở thì trông thật dễ thương, kiêu sa, lộng lẫy với mùi hương nồng nàn khiến ta ngất ngây. Sau đó vài ngày các cánh hoa tàn úa theo quy luật thành-trụ-hoại-không không ai tránh khỏi! Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có lần băn khoăn:

 Ta còn để lại gì không?

 Kìa non đá lở này sông cát bồi

 Lang thang từ độ luân hồi

 U minh nẻo trước xa xôi dặm về

Vâng chúng ta chỉ là hạt bụi lênh đênh thôi …

Ta như nghe lời bài hát Trịnh Công Sơn:

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi... »

(Trịnh Công Sơn, Cát Bụi)

Nghe vọng vang như Lời Kinh thánh “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3, 19), thân phận con người thật mong manh.

Hiểu được rõ ràng như vậy, ta mới không bị động tâm, không buồn khổ khi lẽ vô thường ứng dụng trên ta. Có đó rồi mất đó. Lý Bạch kêu lên “Xử thế nhược đại mộng. Hồ vi lao kỳ sinh?” Cuộc đời có khác gì giấc mộng Nam Kha, Ngày nay chúng ta đóng vai nghệ sỹ, giáo sư, giám đốc, bộ trưởng, thủ tướng, tổng thống trong một thời gian nào đó rồi chúng ta cũng sẽ già nua đi, phải từ giã công việc, vì không còn cái lộng lẫy, hào nhoáng thưở nào vì vinh quang không bao giờ vĩnh viễn .

 Nghĩ thân phù thế mà đau

 Bọt trong biển khổ bèo đầu bến mê

(Nguyễn Gia Thiều)

Tác giả còn một câu chuyện cảm động về hai bà mẹ, một ở Ý, một ở Việt Nam.

 Tình mẫu tử thiêng liêng bây giờ nhớ lại “Suốt một đời mẹ chỉ muốn tận tình chăm sóc chồng, thế mà sau ngày cưới chẳng bao lâu, người chồng đã bắt đầu làm khổ mẹ. Niềm an ủi duy nhất của mẹ chính là những đứa con: anh trai và con, đứa con gái mà mẹ muốn giữ, chống lại ước muốn của chồng. Tám năm sau lần sinh nở đầu tiên, chính mẹ đã quyết liệt chống đối để con có thể tiếp tục lớn lên trong bụng mẹ..” Rồi đau xót khi phải chia lìa mẹ “Mẹ ơi, trong những ngày cuối, chao ôi, con thấy mẹ dịu ngọt và mỏng mảnh làm sao! Con biết không phải mẹ khóc vì mình sẽ lìa bỏ cõi đời mà khóc cho những đứa con mà mẹ phải rời xa. Đó không phải là ý muốn của mẹ, mà là do cái khối u tàn nhẫn đang lớn dần bên trong và từng ngày cướp đi sức sống.” Nhưng Elena đã kết nối bà với một bà mẹ khác. “Bây giờ thì con xin báo cho mẹ biết là trong những ngày tới, mẹ sẽ có một cuộc gặp gỡ quan trọng. Đến gặp mẹ là một người đàn bà mà mẹ đã từng gặp rất nhiều năm trước: mẹ của chồng con. Con tin chắc rằng hai người sẽ trở thành bạn, sẽ kể cho nhau nghe nhiều rất chuyện, về những cuộc đời ở mãi tận phía bên kia trái đất. Bà ấy hay cười và thích nói đùa. Đây là điều mà con đang tưởng tượng: hai người ngồi bên nhau như thể là hai người bạn lâu năm, vui đùa, cười nói. Mẹ chồng của con sẽ nói về Việt Nam, sẽ giải thích về lễ Vu Lan, một ngày lễ Phật Giáo rất đặc biệt dành cho các bà mẹ vì họ giữ một vai trò quan trọng trong gia đình cũng như ngoài xã hội”.

Ngày lễ đó cũng là một cơ hội để các con có thể nói lên tình yêu thương và báo đáp lòng hiếu thảo với mẹ, người đã chịu đựng biết bao đau đớn để sinh con, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng nên người. Bao nhiêu khó khăn thường nhật mà người mẹ phải vượt qua, kiên nhẫn, hy sinh và xem nhẹ những đớn đau hiện tại để nuôi hy vọng về một tương lai tốt đẹp.

Khi một trong hai bà còn sống, Elena phải tốn công giải thích tại sao có  hai đóa hồng hai màu khác nhau “ Con vội giải thích với cô ta rằng chiếc hoa hồng màu trắng là cho mẹ ruột của cô, còn hoa hồng màu đỏ là dành cho mẹ của chồng, mà con xem là bà mẹ thứ hai…..; Còn đứa con dâu ngoại quốc, có dáng vẻ bên ngoài có lẽ rất khác với những gì bà chờ đợi, nhưng luôn dành cho bà một tình thương và lòng kính mến như chính là con gái. Kính mến và yêu thương thật sự, đến nỗi con thường tránh chữ mẹ chồng (vì những ý nghĩa mà thông thường người ta hay đem ra chế diễu); Có khi con xem gọi thế là một sự xúc phạm. Mẹ. Là mẹ, thế thôi.

Nhưng đến khi cả hai đều đã qua đời, tình yêu dành cho hai bà vượt ra ngoài phạm trù không – thời gian, lớn lao ngoài mong đợi vì cả hai đã qua bờ bên kia.

Bây giờ thì mẹ và mẹ của chồng con đang ở bên nhau và ý nghĩ là cả hai đều bình yên đã cho con rất nhiều an ủi. Con sẽ luôn nghĩ đến hai người mẹ và mùa Vu Lan này, giữa các nghi thức cúng kiến, con muốn được đốt một chiếc điện thoại di động bằng giấy theo truyền thống của người Việt Nam để có thể nghe được giọng nói thân thương của mẹ. 

Và bắt đầu từ nay, các em bé sẽ gắn lên trên ngực áo của con hai bông hồng trắng.

Con ôm hôn mẹ, thật mạnh.” (Thư viết cho mẹ)

Đấy là tất cả những gì Elena viết trong phần đầu của tập sách, ngần ấy trang viết chan chứa những tình cảm lắng về tình yêu, về số phận con người, về sự mong manh vô thường của kiếp người, nhưng nói như Andre Malraux “Đành rằng cuộc đời vô nghĩa nhưng có cái gì có nghĩa hơn cuộc đời đâu (Une vie ne vaut rien, mais rien ne vaut une vie). Thế nên nhà Phật dạy ta sự an nhiên khi đối diện cái chết và những biến động của đời sống.  Elena diễn tả tất cả triết lý nhân sinh ấy bằng một bút pháp nhẹ nhàng dung dị nhưng tràn đầy cảm xúc, sâu lắng và không kém phần uyên áo trong tư duy của một ngòi viết am hiểu những nguyên lý căn bản về đạo Phật. Đức Dalai Lama, một trong những nhân cách đáng kính nhất của thời hiện đại có nói: “Tôi không quan tâm đến tôn giáo của bạn hoặc bạn là người có tôn giáo hay không. Điều thật sự quan trọng đối với tôi là thái độ của bạn trước đồng loại, gia đình, công việc, tập thể và thế giới. Bạn hãy nhớ rằng vũ trụ phản ảnh các hành động và suy nghĩ của bạn…”

 Và Elena đã trân trọng mô tả, ghi chép lại tất cả tình yêu thương dành cho gia đình, công việc, cộng đồng và thế giới xung quanh bằng trí tuệ mẫn tiệp và ngòi bút tài hoa của mình… Điều tôi viết chỉ là phần đầu của tác phẩm, còn phần tạp văn và suy tư của Elena dành cho bè bạn chiếm một dung lượng tương đương những gì vừa nói ở trên. Hãy đọc “Hạt bụi lênh đênh và cảm nhận trong tinh thần ấy.

 Sài Gòn, tháng 6, 2021

 Nguyên Cẩn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm