TIN TỨC

Muôn nỗi gần xa - dư âm & rung cảm

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-08-08 20:57:14
mail facebook google pos stwis
2103 lượt xem

NGUYỄN VŨ TIỀM

Đây là tập thơ thứ hai của nhà thơ Trần Kim Dung. Tôi vẫn lưu giữ ấn tượng khó quên về tập thơ thứ nhất, đó là có 2 bài thơ được giải nhất trong hai cuộc thi thơ do Trung tâm Văn Hóa thuộc Sở Văn hóa Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Các cuộc thi được tổ chức vào khoảng những năm 2015 - 2018, nội dung theo các chủ đề khác nhau. Chúng tôi tham gia ban Giám khảo, đọc bài mà không biết của ai, đến khi Ban Tổ chức “khớp phách” mới biết người giải nhất kỳ này lại vẫn là “thủ khoa” của cuộc thi trước. Đành tôn trọng tính khách quan. Vậy là nhà thơ Trần Kim Dung nghiễm nhiên là Thủ khoa của hai cuộc thi thơ.

Ở tập thơ trước, “Bầu trời dưới đáy sông” (Tên của bài thơ được giải nhất) có nhiều bài về thời cuộc, xã hội, thì ở tập thơ này “Muôn nỗi gần xa” có nhiều bài về truyền thống, lịch sử, danh lam thắng cảnh, xã hội và gia đình, quê hương, nhà trường và bè bạn…

Về cội nguồn lịch sử tác giả đề cập đến nhiều đề tài rất phong phú. Một số bài có ấn tượng tốt. Trong bài “Yên Tử”, nơi Phật Hoàng Trần Nhân Tông trao ngôi báu cho con khi người còn rất trẻ để lên Yên Tử tu hành, bài thơ có đoạn:

        Đây Chùa Đồng, nơi giao thoa trời đất
        Khói hương hoa ngút ngát quyện mây trời
        Mái cong vén sương, vén mây, bay lên đỉnh núi
        Chuông khánh ngân dài nghiêng ngả khắp trùng khơi.

Không cần nói độ cao của Chùa Đồng mà chỉ viết: “Mái cong vén sương vén mây bay lên đỉnh núi” đủ biết mái chùa đã vượt qua nhiều tầng sương và mây ở lưng chừng núi để ngự ở trên đỉnh núi này, ta đã thấy chùa cao đến khó tưởng tượng. Ở độ cao này, mái chùa là nơi “giao thoa trời đất”. Những câu thơ thật hàm súc, sinh động và rất đẹp.               

Nói về cố đô Hoa Lư:           
        Bông cỏ lau như cờ hội rộn ràng

        náo nức đón dòng người

        thăm Cố Đô lịch sử

        Như những đội lính Vương Hầu, Cấm Quân

        trung thành nghìn năm canh giữ
        Nơi ba triều vua ngự trị sáng non sông

                                             (Hoa Lư)

Bông cỏ lau xưa kia từng làm cờ tập trận của Đinh Bộ Lĩnh thì nay là cờ hội vẫy chào đoàn người đến thăm cố đô Hoa Lư. Sự liên tưởng này cũng rất thơ.

Bài “Tháp Tường Long”, tác giả mở đầu khá bất ngờ:

        Tôi đếnTường Long khi tháp vừa tỉnh dậy

        Bóc tờ lịch Vạn Niên, mười thế kỷ qua rồi!

        Nghe tháp kể :

        - Vua Lý vừa qua đây ngự giá

        Bóng rồng vàng còn lấp lánh ngoài khơi...

Có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, vừa thực lại vừa ảo, từ đó bài thơ được triển khai khá sinh động, hấp dẫn.

Về thăm Thành Nhà Hồ, một công trình nổi tiếng được xây dựng bằng những khối đá lớn cách đây hơn sáu thế kỷ tại Vĩnh Lộc- Thanh Hóa, tác giả lại có những liên tưởng và suy nghĩ sâu sắc về những biến cố lớn trong lịch sử nước nhà vào đầu thế kỷ XV :
            Thành xây để giữ giang san
            Những mong cơ nghiệp huy hoàng vạn xuân
            Ngờ đâu xuân mới bẩy lần
            Thành Hồ thất thủ đứng dầm gió mưa !
            Vọng về câu của người xưa:
           “Không sợ đánh giặc, sợ dân hùa không theo”…

                                                  ( Trước Thành Nhà Hồ)

Về đề tài lịch sử, tập thơ còn có những bài thơ khác như: “Bãi cọc Cao Quỳ” (Thủy Nguyên - Hải Phòng);  “Phương Nam giỗ Tổ”, “Thăm Hoàng thành Thăng Long”, “Vân Đồn”,  “Khiêm Lăng”, “Qua cầu Bạch Đằng”… gần đây hơn có “Tấm bản đồ đảo nhỏ”, “Bến tàu Không Số” …Mỗi bài thơ là một sự liên tưởng phong phú, một bức tranh sinh động với những cảm xúc và suy nghĩ sâu xa bằng những câu thơ hay, những hình ảnh thật đẹp.

       

Nhà thơ rất chịu khó đi và chị có nhiều thơ kỷ niệm viết về danh lam thắng cảnh của đất nước với cái nhìn và những cảm xúc mới mẻ trước con người và cảnh vật :

        Cô gái Dao gùi sương xuống chợ

        Mộc nhĩ, nấm hương, hạt dẻ, măng rừng

        Cô gái Nùng gánh cả nương ngô nếp

        Trám chín, “ thịt bò gác bếp”,  mật ong...

                                      (Lên Bản Giốc)

Cô gái Dao thường ở lưng chừng núi cao đầy mây và gió phải “gùi sương xuống chợ”, cô gái Nùng nơi thung xanh thì có  thể “gánh cả nương ngô nếp”, trám rừng.

Và : 

         Cô gái H’Mông gùi mây bước nhanh

         Gùi cả những con đường mấp mô dốc đá

         Nặng trĩu sơn tra, rau đắng, măng rừng…

                                        (Tháng Chín vùng cao)

Những hình ảnh vừa thực, vừa ảo làm cho câu thơ lung linh và đa nghĩa, có tầm khái quát cao. Chất nghệ thuật khá đậm nét.

Đến bờ biển Phú Yên nhà thơ lại có liên tưởng thú vị:

           Tiệc triệu năm đã qua rồi

           Chỉ còn lưu niệm cho trời biển xanh

           Ai đem đĩa xếp nên ghềnh

           Chơi vơi mây gió, dập dềnh sóng xô?

                                              (Gành Đá Đĩa)

Thì ra sau những bữa tiệc linh đình của trời đất, những chồng đĩa được xếp lên thành gành đá. Hiện thực và lãng mạn lồng vào nhau tạo nên những câu thơ rất sinh động và ấn tượng. Nhân đây lại nhớ bài “Bầu trời dưới đáy sông” in ở tập thơ trước của Trần Kim Dung. Bài thơ viết về con đường hầm dìm sâu dưới đáy sông Sài Gòn, nối quận Nhất với Thủ Thiêm - quận Hai của Thành phố Hồ Chí Minh. Đi trong đường hầm mà tác giả tưởng tượng như đi trong bầu trời dưới đáy sông. Dàn đèn trên đỉnh đường hầm giống như dải Ngân Hà mà bên trên kia nữa lại là dòng sông Sài Gòn có cá tôm bơi lượn, tàu thuyền qua lại nhộn nhịp đêm ngày :

              Tôi đi trong dải Ngân Hà

               Lung linh sáng, lại ngân nga cung đàn

               Trên kia sông nước ngập tràn

              Cá tôm bơi lượn, tàu ngàn tấn qua

Và:
                Tôi đi dưới vạn sao mai

                 Ngỡ huyền thoại, ngỡ trăng cài đáy sông… 

Sức tưởng tượng của nhà thơ là vô hạn, đó là đặc điểm quan trọng nhất trong sáng tạo nghệ thuật. Bài thơ đã đoạt giải Nhất với số phiếu tuyệt đối.   

Đến Chùa Trấn Quốc Hà Nội, ngôi chùa được báo chí nước ngoài xếp hạng là một trong những ngôi chùa đẹp nhất thế giới, chị viết:

        Ngày lại ngày
        những dòng người qua nơi đây

        cửa từ bi thì thầm chia sẻ

        Tôi mang về trong hành trang nhỏ bé

        bài thơ thiền “Nghìn mắt – nghìn tay”.

                              (Đọc thơ ở chùa Trấn Quốc)

Đến chùa Trấn Quốc, bất chợt bên lối vào, được đọc trên tấm pano lớn bài thơ “Nghìn mắt – nghìn tay” khiến nhà thơ xúc động viết được bài thơ hay với nhiều câu thơ đẹp và nội dung ý nghĩa rất sâu sắc.

Về danh lam thắng cảnh và xã hội nhà thơ còn có những bài khác:  “Chiếc lá trên sông”, “Đền Angkor”, “Chuồn chuồn”, “Giấc mơ Tiên”, “Về miền biên ải”... cũng giới thiệu được nhiều danh thắng trong và ngoài nước với những cảm xúc, suy nghĩ sâu xa về cuộc sống xã hội, về những thân phận bằng những câu thơ hay và hình ảnh đẹp.

Qua những bài thơ về đề tài lịch sử và thắng cảnh, tôi thấy nhà thơ Trần Kim Dung dẫu chỉ là khách du lịch, dừng chân không lâu nhưng chị không viết theo lối “cưỡi ngựa xem hoa” mà viết rất kỹ càng, nhiều chi tiết có chiều sâu, chứng tỏ khi đến mỗi nơi, chị đều có cách nhìn và suy nghĩ sâu sắc, tham khảo thêm nhiều tài liệu để viết nên những bài thơ rất phong phú về tư liệu, có tầm khái quát và sáng tạo trong nghệ thuật. Đây là ưu điểm lớn khiến cho tập thơ hấp dẫn, cung cấp cho người đọc những nội dung bổ ích, bài thơ nào đọc lên cũng đều có dư âm và rung cảm sâu xa.

Viết về gia đình, người thân, Trần Kim Dung có những bài chân thực và xúc động về cha mẹ, anh chị em, con cháu…

        Nhớ xưa cha mẹ gánh gồng
        Cho con “chạy loạn” ra vùng “ hậu phương”
        Làng Nôm súng nổ mờ sương
        Sông Đáy rực lửa, khói vương Thành Hồ
        Con đường thiên lý xa mờ
        Dấu chân cha mẹ bây giờ còn nguyên...

                                             (Mẹ tôi)

Cha mẹ đã khuất cả rồi, tác giả vẫn cảm thấy “Dấu chân cha mẹ bây giờ còn nguyên” là sự tưởng tượng tưởng như phi lý mà rất hợp lý. Đó là tình cảm của người con nhớ đến công lao vất vả của bậc sinh thành, những kỷ niệm khắc sâu trong lòng con cái không thể phai mờ.

Trong bài “Gửi chị tôi”, nhớ thương anh trai đã khuất, tác giả khéo đưa vào yếu tố thời sự, đó là dịch Covid 19 với biến chủng Delta rất nguy hiểm, bao trùm khắp thế giới:

        Giỗ anh Cả sau ba mùa sen nở
        Em cũng không có mặt một ngày
        Chắc anh không giận, vì biết Delta hung dữ
        Phá điêu tàn cả thế giới Đông Tây

Về việc anh cả ra đi, rất đau buồn, nhưngTrần Kim Dung có cái nhìn minh triết trên cơ sở quy luật cuộc sống:

        Dời cõi tạm, thoát khổ đau bon chen

        Anh thanh thản về miền xanh thẳm

        Gặp lại em trai, cha mẹ, ông bà
                                      (Tiễn Anh Cả)

Đó là quy luật “sinh – lão – bệnh – tử” mà ai cũng phải trải qua. Câu thơ đau xót mà vẫn điềm tĩnh nhẹ nhàng tỉnh táo.

Viết về gia đình và những người thân, Trần Kim Dung còn có những bài tặng riêng cho các con và các cháu rất cảm động :
          Con đã vượt qua những mùa đông
          và tháng ngày rau mắm
          Một hạt cơm cõng chín hạt mạch, mỳ
          Phiếu đường sữa không đủ ăn nửa tháng
          Con cố lớn dần để biết lẫy biết đi…

                                          (Nhớ mùa giáng sinh)

Cảm thông với các cháu đi học vất vả, xa nhà lại gặp thiên tai, dịch bệnh:
            Hai năm con chưa được về
            Hai lần cầm vé, tưởng về, lại không

                                        (Gửi cháu Tú Anh)

 Và:      Đã gặp bão tuyết bờ Đông
             Đã nghe lửa dữ thiêu rừng Úc xanh

                                          (Chúc mừng cháu trai)

Hoặc:
             Theo hai ông mặt trời

             Đêm nào cũng nghe giảng

             Nhiều đêm chưa xong bài

             Đã nghe gà gáy sáng
                                        (Hai ông mặt trời)
Bài nào cũng có những hình ảnh, chi tiết rất thực nhưng rất sinh động, tránh được chung chung khiến cho người trong cuộc chắc sẽ cảm động, còn người ngoài cuộc đọc lên cũng thấy thú vị. Viết về cái riêng mà diễn tả được như thế không phải dễ chút nào. Tập thơ còn mở rộng ra nhiều đề tài khác như tình cảm đối với mái trường, thầy cô, bè bạn… đó là những đề tài gần gũi, thiết thực.

Điều này cũng hợp với lẽ đời, khi người ta đã qua nhiều trải nghiệm, đến tuổi “xưa nay hiếm” thường là hướng về nguồn cội, những nơi, những người thân thương gần gũi nhất. Lẽ đời, lẽ vô thường là điều tâm đắc nhất. Trần Kim Dung chắc cũng vậy. Lại nhớ câu thơ của Lão Tử trong “Đạo đức kinh”: “Người ta thấm thoắt trên đời được bao”. Lúc này mọi chuyện thế cuộc đua chen kể cả nguyên tử, hạt nhân, tên lửa đạn đạo, siêu thanh ở đâu đó cũng trở nên phù phiếm, nhiều khi vô nghĩa. Chỉ có tình yêu thương mới bảo vệ và cứu rỗi cuộc sống được mà thôi.

Ngoài những ưu điểm trên, so với tập thơ trước, tập thơ này tác giả đã thể hiện được sự lao động nghệ thuật nghiêm cẩn hơn. Chân thực nhưng không có nghĩa là “ quá thật thà ”,  mà trong nhiều bài đã có sự kết hợp thực và ảo, lãng mạn và hiện thực lồng với nhau rất sáng tạo. Nhiều kết hợp từ mới mẻ tạo nên vừa giầu chất thơ vừa chân thực, vừa ảo diệu:
Viết về miền biên giới phía Bắc:                        
             Nơi tôi đến

             núi chồng núi

             giữa lưng chừng mây gió

             Rừng bay lên

             theo Thác Bạc , Cổng Trời

             Lúa chồng lúa

             thành bậc thang huyền diệu
             Đào mận rộn ràng tựa chốn Bồng Lai

                                                   (Về miền biên ải )
Viết về những hàng cây phượng vỹ bên hai bờ sông Lấp vào mùa hoa nở rất sống động :

             Làn môi đỏ thắm bên sông
             Tóc xanh em thả nghiêng dòng nước mây…

Và cảnh thiên nhiên nơi biển đảo Cát Bà cũng rất hấp dẫn:
              Thuyền ai thả lưới vây quanh
              Mà Hòn Rùa vẫn ngâm mình ngủ say?
              Ai về Đảo Khỉ chiều nay
              Mà xem đàn voọc đu mây ngắm trời…

                                                       (Cát Bà)
 

Nhiều câu thơ khác trong các bài: “Yên Tử”, “Hoa Lư”, “Chuồn chuồn”, “Lên Bản Giốc”, “Rừng Cúc Phương”… và nhiều bài khác nữa đều đã thể hiện điều đó.

Đọc xong tập thơ “Muôn nỗi gần xa”, gấp sách lại, những dư âm và rung cảm về tính chân thực gần gũi như vẫn còn đâu đây, ngân vang mãi mãi.
 

N.V.T
TP HCM - Tháng 01- 2022

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm