TIN TỨC

Muôn nỗi gần xa - dư âm & rung cảm

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-08-08 20:57:14
mail facebook google pos stwis
1919 lượt xem

NGUYỄN VŨ TIỀM

Đây là tập thơ thứ hai của nhà thơ Trần Kim Dung. Tôi vẫn lưu giữ ấn tượng khó quên về tập thơ thứ nhất, đó là có 2 bài thơ được giải nhất trong hai cuộc thi thơ do Trung tâm Văn Hóa thuộc Sở Văn hóa Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Các cuộc thi được tổ chức vào khoảng những năm 2015 - 2018, nội dung theo các chủ đề khác nhau. Chúng tôi tham gia ban Giám khảo, đọc bài mà không biết của ai, đến khi Ban Tổ chức “khớp phách” mới biết người giải nhất kỳ này lại vẫn là “thủ khoa” của cuộc thi trước. Đành tôn trọng tính khách quan. Vậy là nhà thơ Trần Kim Dung nghiễm nhiên là Thủ khoa của hai cuộc thi thơ.

Ở tập thơ trước, “Bầu trời dưới đáy sông” (Tên của bài thơ được giải nhất) có nhiều bài về thời cuộc, xã hội, thì ở tập thơ này “Muôn nỗi gần xa” có nhiều bài về truyền thống, lịch sử, danh lam thắng cảnh, xã hội và gia đình, quê hương, nhà trường và bè bạn…

Về cội nguồn lịch sử tác giả đề cập đến nhiều đề tài rất phong phú. Một số bài có ấn tượng tốt. Trong bài “Yên Tử”, nơi Phật Hoàng Trần Nhân Tông trao ngôi báu cho con khi người còn rất trẻ để lên Yên Tử tu hành, bài thơ có đoạn:

        Đây Chùa Đồng, nơi giao thoa trời đất
        Khói hương hoa ngút ngát quyện mây trời
        Mái cong vén sương, vén mây, bay lên đỉnh núi
        Chuông khánh ngân dài nghiêng ngả khắp trùng khơi.

Không cần nói độ cao của Chùa Đồng mà chỉ viết: “Mái cong vén sương vén mây bay lên đỉnh núi” đủ biết mái chùa đã vượt qua nhiều tầng sương và mây ở lưng chừng núi để ngự ở trên đỉnh núi này, ta đã thấy chùa cao đến khó tưởng tượng. Ở độ cao này, mái chùa là nơi “giao thoa trời đất”. Những câu thơ thật hàm súc, sinh động và rất đẹp.               

Nói về cố đô Hoa Lư:           
        Bông cỏ lau như cờ hội rộn ràng

        náo nức đón dòng người

        thăm Cố Đô lịch sử

        Như những đội lính Vương Hầu, Cấm Quân

        trung thành nghìn năm canh giữ
        Nơi ba triều vua ngự trị sáng non sông

                                             (Hoa Lư)

Bông cỏ lau xưa kia từng làm cờ tập trận của Đinh Bộ Lĩnh thì nay là cờ hội vẫy chào đoàn người đến thăm cố đô Hoa Lư. Sự liên tưởng này cũng rất thơ.

Bài “Tháp Tường Long”, tác giả mở đầu khá bất ngờ:

        Tôi đếnTường Long khi tháp vừa tỉnh dậy

        Bóc tờ lịch Vạn Niên, mười thế kỷ qua rồi!

        Nghe tháp kể :

        - Vua Lý vừa qua đây ngự giá

        Bóng rồng vàng còn lấp lánh ngoài khơi...

Có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, vừa thực lại vừa ảo, từ đó bài thơ được triển khai khá sinh động, hấp dẫn.

Về thăm Thành Nhà Hồ, một công trình nổi tiếng được xây dựng bằng những khối đá lớn cách đây hơn sáu thế kỷ tại Vĩnh Lộc- Thanh Hóa, tác giả lại có những liên tưởng và suy nghĩ sâu sắc về những biến cố lớn trong lịch sử nước nhà vào đầu thế kỷ XV :
            Thành xây để giữ giang san
            Những mong cơ nghiệp huy hoàng vạn xuân
            Ngờ đâu xuân mới bẩy lần
            Thành Hồ thất thủ đứng dầm gió mưa !
            Vọng về câu của người xưa:
           “Không sợ đánh giặc, sợ dân hùa không theo”…

                                                  ( Trước Thành Nhà Hồ)

Về đề tài lịch sử, tập thơ còn có những bài thơ khác như: “Bãi cọc Cao Quỳ” (Thủy Nguyên - Hải Phòng);  “Phương Nam giỗ Tổ”, “Thăm Hoàng thành Thăng Long”, “Vân Đồn”,  “Khiêm Lăng”, “Qua cầu Bạch Đằng”… gần đây hơn có “Tấm bản đồ đảo nhỏ”, “Bến tàu Không Số” …Mỗi bài thơ là một sự liên tưởng phong phú, một bức tranh sinh động với những cảm xúc và suy nghĩ sâu xa bằng những câu thơ hay, những hình ảnh thật đẹp.

       

Nhà thơ rất chịu khó đi và chị có nhiều thơ kỷ niệm viết về danh lam thắng cảnh của đất nước với cái nhìn và những cảm xúc mới mẻ trước con người và cảnh vật :

        Cô gái Dao gùi sương xuống chợ

        Mộc nhĩ, nấm hương, hạt dẻ, măng rừng

        Cô gái Nùng gánh cả nương ngô nếp

        Trám chín, “ thịt bò gác bếp”,  mật ong...

                                      (Lên Bản Giốc)

Cô gái Dao thường ở lưng chừng núi cao đầy mây và gió phải “gùi sương xuống chợ”, cô gái Nùng nơi thung xanh thì có  thể “gánh cả nương ngô nếp”, trám rừng.

Và : 

         Cô gái H’Mông gùi mây bước nhanh

         Gùi cả những con đường mấp mô dốc đá

         Nặng trĩu sơn tra, rau đắng, măng rừng…

                                        (Tháng Chín vùng cao)

Những hình ảnh vừa thực, vừa ảo làm cho câu thơ lung linh và đa nghĩa, có tầm khái quát cao. Chất nghệ thuật khá đậm nét.

Đến bờ biển Phú Yên nhà thơ lại có liên tưởng thú vị:

           Tiệc triệu năm đã qua rồi

           Chỉ còn lưu niệm cho trời biển xanh

           Ai đem đĩa xếp nên ghềnh

           Chơi vơi mây gió, dập dềnh sóng xô?

                                              (Gành Đá Đĩa)

Thì ra sau những bữa tiệc linh đình của trời đất, những chồng đĩa được xếp lên thành gành đá. Hiện thực và lãng mạn lồng vào nhau tạo nên những câu thơ rất sinh động và ấn tượng. Nhân đây lại nhớ bài “Bầu trời dưới đáy sông” in ở tập thơ trước của Trần Kim Dung. Bài thơ viết về con đường hầm dìm sâu dưới đáy sông Sài Gòn, nối quận Nhất với Thủ Thiêm - quận Hai của Thành phố Hồ Chí Minh. Đi trong đường hầm mà tác giả tưởng tượng như đi trong bầu trời dưới đáy sông. Dàn đèn trên đỉnh đường hầm giống như dải Ngân Hà mà bên trên kia nữa lại là dòng sông Sài Gòn có cá tôm bơi lượn, tàu thuyền qua lại nhộn nhịp đêm ngày :

              Tôi đi trong dải Ngân Hà

               Lung linh sáng, lại ngân nga cung đàn

               Trên kia sông nước ngập tràn

              Cá tôm bơi lượn, tàu ngàn tấn qua

Và:
                Tôi đi dưới vạn sao mai

                 Ngỡ huyền thoại, ngỡ trăng cài đáy sông… 

Sức tưởng tượng của nhà thơ là vô hạn, đó là đặc điểm quan trọng nhất trong sáng tạo nghệ thuật. Bài thơ đã đoạt giải Nhất với số phiếu tuyệt đối.   

Đến Chùa Trấn Quốc Hà Nội, ngôi chùa được báo chí nước ngoài xếp hạng là một trong những ngôi chùa đẹp nhất thế giới, chị viết:

        Ngày lại ngày
        những dòng người qua nơi đây

        cửa từ bi thì thầm chia sẻ

        Tôi mang về trong hành trang nhỏ bé

        bài thơ thiền “Nghìn mắt – nghìn tay”.

                              (Đọc thơ ở chùa Trấn Quốc)

Đến chùa Trấn Quốc, bất chợt bên lối vào, được đọc trên tấm pano lớn bài thơ “Nghìn mắt – nghìn tay” khiến nhà thơ xúc động viết được bài thơ hay với nhiều câu thơ đẹp và nội dung ý nghĩa rất sâu sắc.

Về danh lam thắng cảnh và xã hội nhà thơ còn có những bài khác:  “Chiếc lá trên sông”, “Đền Angkor”, “Chuồn chuồn”, “Giấc mơ Tiên”, “Về miền biên ải”... cũng giới thiệu được nhiều danh thắng trong và ngoài nước với những cảm xúc, suy nghĩ sâu xa về cuộc sống xã hội, về những thân phận bằng những câu thơ hay và hình ảnh đẹp.

Qua những bài thơ về đề tài lịch sử và thắng cảnh, tôi thấy nhà thơ Trần Kim Dung dẫu chỉ là khách du lịch, dừng chân không lâu nhưng chị không viết theo lối “cưỡi ngựa xem hoa” mà viết rất kỹ càng, nhiều chi tiết có chiều sâu, chứng tỏ khi đến mỗi nơi, chị đều có cách nhìn và suy nghĩ sâu sắc, tham khảo thêm nhiều tài liệu để viết nên những bài thơ rất phong phú về tư liệu, có tầm khái quát và sáng tạo trong nghệ thuật. Đây là ưu điểm lớn khiến cho tập thơ hấp dẫn, cung cấp cho người đọc những nội dung bổ ích, bài thơ nào đọc lên cũng đều có dư âm và rung cảm sâu xa.

Viết về gia đình, người thân, Trần Kim Dung có những bài chân thực và xúc động về cha mẹ, anh chị em, con cháu…

        Nhớ xưa cha mẹ gánh gồng
        Cho con “chạy loạn” ra vùng “ hậu phương”
        Làng Nôm súng nổ mờ sương
        Sông Đáy rực lửa, khói vương Thành Hồ
        Con đường thiên lý xa mờ
        Dấu chân cha mẹ bây giờ còn nguyên...

                                             (Mẹ tôi)

Cha mẹ đã khuất cả rồi, tác giả vẫn cảm thấy “Dấu chân cha mẹ bây giờ còn nguyên” là sự tưởng tượng tưởng như phi lý mà rất hợp lý. Đó là tình cảm của người con nhớ đến công lao vất vả của bậc sinh thành, những kỷ niệm khắc sâu trong lòng con cái không thể phai mờ.

Trong bài “Gửi chị tôi”, nhớ thương anh trai đã khuất, tác giả khéo đưa vào yếu tố thời sự, đó là dịch Covid 19 với biến chủng Delta rất nguy hiểm, bao trùm khắp thế giới:

        Giỗ anh Cả sau ba mùa sen nở
        Em cũng không có mặt một ngày
        Chắc anh không giận, vì biết Delta hung dữ
        Phá điêu tàn cả thế giới Đông Tây

Về việc anh cả ra đi, rất đau buồn, nhưngTrần Kim Dung có cái nhìn minh triết trên cơ sở quy luật cuộc sống:

        Dời cõi tạm, thoát khổ đau bon chen

        Anh thanh thản về miền xanh thẳm

        Gặp lại em trai, cha mẹ, ông bà
                                      (Tiễn Anh Cả)

Đó là quy luật “sinh – lão – bệnh – tử” mà ai cũng phải trải qua. Câu thơ đau xót mà vẫn điềm tĩnh nhẹ nhàng tỉnh táo.

Viết về gia đình và những người thân, Trần Kim Dung còn có những bài tặng riêng cho các con và các cháu rất cảm động :
          Con đã vượt qua những mùa đông
          và tháng ngày rau mắm
          Một hạt cơm cõng chín hạt mạch, mỳ
          Phiếu đường sữa không đủ ăn nửa tháng
          Con cố lớn dần để biết lẫy biết đi…

                                          (Nhớ mùa giáng sinh)

Cảm thông với các cháu đi học vất vả, xa nhà lại gặp thiên tai, dịch bệnh:
            Hai năm con chưa được về
            Hai lần cầm vé, tưởng về, lại không

                                        (Gửi cháu Tú Anh)

 Và:      Đã gặp bão tuyết bờ Đông
             Đã nghe lửa dữ thiêu rừng Úc xanh

                                          (Chúc mừng cháu trai)

Hoặc:
             Theo hai ông mặt trời

             Đêm nào cũng nghe giảng

             Nhiều đêm chưa xong bài

             Đã nghe gà gáy sáng
                                        (Hai ông mặt trời)
Bài nào cũng có những hình ảnh, chi tiết rất thực nhưng rất sinh động, tránh được chung chung khiến cho người trong cuộc chắc sẽ cảm động, còn người ngoài cuộc đọc lên cũng thấy thú vị. Viết về cái riêng mà diễn tả được như thế không phải dễ chút nào. Tập thơ còn mở rộng ra nhiều đề tài khác như tình cảm đối với mái trường, thầy cô, bè bạn… đó là những đề tài gần gũi, thiết thực.

Điều này cũng hợp với lẽ đời, khi người ta đã qua nhiều trải nghiệm, đến tuổi “xưa nay hiếm” thường là hướng về nguồn cội, những nơi, những người thân thương gần gũi nhất. Lẽ đời, lẽ vô thường là điều tâm đắc nhất. Trần Kim Dung chắc cũng vậy. Lại nhớ câu thơ của Lão Tử trong “Đạo đức kinh”: “Người ta thấm thoắt trên đời được bao”. Lúc này mọi chuyện thế cuộc đua chen kể cả nguyên tử, hạt nhân, tên lửa đạn đạo, siêu thanh ở đâu đó cũng trở nên phù phiếm, nhiều khi vô nghĩa. Chỉ có tình yêu thương mới bảo vệ và cứu rỗi cuộc sống được mà thôi.

Ngoài những ưu điểm trên, so với tập thơ trước, tập thơ này tác giả đã thể hiện được sự lao động nghệ thuật nghiêm cẩn hơn. Chân thực nhưng không có nghĩa là “ quá thật thà ”,  mà trong nhiều bài đã có sự kết hợp thực và ảo, lãng mạn và hiện thực lồng với nhau rất sáng tạo. Nhiều kết hợp từ mới mẻ tạo nên vừa giầu chất thơ vừa chân thực, vừa ảo diệu:
Viết về miền biên giới phía Bắc:                        
             Nơi tôi đến

             núi chồng núi

             giữa lưng chừng mây gió

             Rừng bay lên

             theo Thác Bạc , Cổng Trời

             Lúa chồng lúa

             thành bậc thang huyền diệu
             Đào mận rộn ràng tựa chốn Bồng Lai

                                                   (Về miền biên ải )
Viết về những hàng cây phượng vỹ bên hai bờ sông Lấp vào mùa hoa nở rất sống động :

             Làn môi đỏ thắm bên sông
             Tóc xanh em thả nghiêng dòng nước mây…

Và cảnh thiên nhiên nơi biển đảo Cát Bà cũng rất hấp dẫn:
              Thuyền ai thả lưới vây quanh
              Mà Hòn Rùa vẫn ngâm mình ngủ say?
              Ai về Đảo Khỉ chiều nay
              Mà xem đàn voọc đu mây ngắm trời…

                                                       (Cát Bà)
 

Nhiều câu thơ khác trong các bài: “Yên Tử”, “Hoa Lư”, “Chuồn chuồn”, “Lên Bản Giốc”, “Rừng Cúc Phương”… và nhiều bài khác nữa đều đã thể hiện điều đó.

Đọc xong tập thơ “Muôn nỗi gần xa”, gấp sách lại, những dư âm và rung cảm về tính chân thực gần gũi như vẫn còn đâu đây, ngân vang mãi mãi.
 

N.V.T
TP HCM - Tháng 01- 2022

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm