TIN TỨC

Nguyễn Tấn On với tập Tiết tấu thơ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-09-11 23:53:46
mail facebook google pos stwis
1890 lượt xem

Nguyễn Văn Hòa

Nhận được tập sách Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On gửi tặng vào một chiều cuối thu đã muộn, tôi vội mở ra và tìm đọc ngay bài thơ cùng tên. Tên tập thơ và những câu thơ trong bài thơ cùng tên với thi tập Tiết tấu thơ đã tạo cho tôi ấn tượng. Ở đó, hiển hiện tâm thế, tấm lòng, sự chân thành của một người yêu thơ và sống trọn vẹn cho thơ.

Nhà thơ Nguyễn Tấn On

Tôi ôm tôi quấn tròn

nằm lăn ra làm thơ

khi nỗi buồn mặt trời còn giấu kín

khi em bảo thơ chẳng làm ra cơm áo

Bao nhiêu đời, họ ngẩn ngẩn ngơ ngơ

thơ rất đỗi bình thường

như người nông dân chân lấm tay bùn

trên cánh đồng thời vụ

như nhà bác học trăn trở

trước những phát minh

như lời khẩn cầu

mưa thuận gió hòa cho mùa

vung tay gieo hạt

để thành đạt những ước mơ

để chắp cánh cho thơ bay bổng

Tôi ẵm bồng

sinh sản những mùa đau.

Ở thời buổi này mà có người say đắm thơ như thế thì điều ấy thật đáng quý và đáng trân trọng. Vì thế, tôi đọc liền một mạch hết 40 bài trong Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On. 40 bài thơ trong tập sách được nhà thơ dành cả những tâm huyết, sự trăn trở của mình vào đó. Mỗi nơi anh qua, mỗi vùng đất anh đến, những gì anh nghe thấy, anh chứng kiến hay cả những dự cảm về mọi điều diễn ra trong đời sống đều được Nguyễn Tấn On ghi lại một cách chân thực, sinh động. Chính điều này đã tạo nên những dấu ấn nhất định đối với độc giả khi đọc thơ anh.

Điều thú vị và cũng là tín hiệu đáng mừng cho Tiết tấu thơ: đây là tập thơ song ngữ Việt - Anh. Tâp sách được dịch bởi dịch giả, nhà thơ Võ Thị Như Mai. Đó là yếu tố thuận lợi để thơ Nguyễn Tấn On có dịp để mở rộng đối tượng tiếp nhận và cũng là cơ hội tốt để thơ anh có sự lan tỏa.

Bao trùm trong Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On chủ yếu là giọng trầm, buồn. Ở đó thể hiện một cái tôi trữ tình yêu thương da diết, một cái tôi đầy suy tưởng về những điều hiện hữu, về quá khứ đã qua và cả những dự cảm về tương lai.

Cái hay ở thơ Nguyễn Tấn On là anh thường dùng những thủ pháp nghệ thuật: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hóa... một cách linh hoạt để chuyển tải những nỗi niềm một cách vi tế nhất.

Tiếng dương cầm tắm gội cùng mưa, ngay tên nhan đề bài thơ đã tạo nên sự ám gợi.

xuống phố/ dốc nghiêng vai chầm chậm/ gió phất phơ/ cành đào rụng lá trơ xương/ nhu nhú những nụ hoa vươn tới/ cơn mưa xõa tóc một làn hương/ mỏng mảnh phai mấy màu áo lụa/ trời nắng mưa trầm tích những vần mây/ xuống phố/ chạm cơn mưa nhè nhẹ/ chậm thế nào cũng vấp một tiếng rơi/ hàng cây cũ soi mặt hồ trong mới/ mưa ngọt ngào lún từng giọt thiết tha/ chiếc khẩu trang đi qua mùa dịch bệnh/ ấm áp nụ cười, bùi ngùi sẻ chia/ vết thương nào cũng thành sẹo/ nhưng cầu mong bệnh đừng trở nặng thêm// mùa giêng/ mưa nghiêng qua ô cửa/ nhà ai - mùi củi thơm tho/ bên lò sưởi mặn nồng/ nhón gót bên rào tường vy thấp thoáng/ tiếng dương cầm tắm gội cùng mưa.

Thực tại đời sống có muôn vàn ẩn số, ám dụ, ẩn dụ nhưng bằng lôgic thông thường con người không giải mã được trọn vẹn. Vì thế, đôi lúc trong sáng tạo thi ca nhà thơ phải dùng biểu tượng. Biểu tượng: mặt trời, nắng, mưa, đêm, mùa thu, biểu tượng quê hương - đất nước... được Nguyễn Tấn On sử dụng trong thơ anh như là cách để giải thích, sáng tạo, tái sinh, liên tưởng trong sự kết hợp văn hóa, sự đa dạng của đời sống.

Đọc những câu thơ trong bài Người vẽ mùa thu gợi cho ta cảm giác thương nhớ ngút ngàn, sự hoang hoải, trống vắng, niềm tiếc thương và cả thái độ trân trọng. Quá khứ thương đau nhưng không thể nào tắt đi niềm tin yêu, hi vọng vào sự hồi sinh ở phía trước. Người đàn bà quên gương lược/ để tóc tự tình mưa gió vui...// Mùa thu về đâu?/ không có lá vàng chỉ có đàn kiến tha những sợi tơ mùa/ qua ngã tư, ngã năm vừa lắp đèn xanh, đèn đỏ/ về đồi cao làm tổ, chờ đông về ấp ủ tình yêu/ những khu phố không còn giăng dây - cách ly - chống dịch./ những hũ tro, cốt tẫn liệm/ bằng ký ức sẻ chia/ bằng tiếc thương/ trân trọng// Mặt trời lên/ người đàn bà vẽ mùa thu/ bằng âm thanh/ bằng ký tự/ bằng nhịp thở/ hồi sinh.

Một sự bất thường đã xảy ra: mùa thu không có lá vàng rơi rụng nhưng lại là mùa của những linh hồn ra đi vất vưởng, ai oán, nức nở khi chưa kịp giã biệt bất cứ điều gì...

Nắng quê nhà là bài thơ hay, để lại nhiều cảm xúc đối với người đọc; bởi nhà thơ đã nói lên tiếng lòng thành thực của chính mình về quê nhà bằng tình yêu và nỗi nhớ trong trẻo, da diết.

Ta về tắm nắng nhà quê/ Cây rơm khuyết chỗ con bê rút ngày/ Rủ em về ngay - hôm nay/ Con chào mào hót rất hay em à// Cây ổi đỏ ruột vườn nhà/ Bánh xèo mẹ đổ nhân là nấm rơm/ Bếp quê chín lửa sôi cơm/ À ơi! Sợi khói, mùa thơm thảo về// Về nhe em, nắng nhà quê/ Thả diều, đánh vụ thích ghê gió đồng/ Về đây tập ta bơi sông/ Con chuồn chuồn cắn, hồng hồng đêm mơ.

Nhưng chắc chắn rằng đó chỉ là kỷ niệm, bởi bây giờ quê hương đã đổi khác, cảnh như lạ như quen càng làm cho đứa con “tha phương” trở lại thêm bùi ngùi.

Nhớ đến quê hương, nhà thơ còn nhớ đến hình ảnh của mẹ của cha đang mòn mỏi trong ngóng đứa con xa trở về thăm nhà. Trong tâm tưởng của một người đứng tuổi như Nguyễn Tấn On, không bao giờ anh nguôi quên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Vì thế dù trong bất cứ tình huống, hoàn cảnh nào nhà thơ cũng phải “Tìm về” chốn cũ. Đó là cách để cho lòng được an yên, là cách để xoa dịu những vết thương lòng, là cách hóa giải những ẩn ức đã và đang hiện hữu trong tâm hồn... Phải là người nặng lòng với quê hương, với những điều bình dị, gần gũi của quê nhà mới có thể viết lên những vần thơ da diết, chan chứa hoài niệm đến thế.

Nhà thơ Nguyễn Tấn On có nhiều bài thơ viết về Sài Gòn, anh xem đó là thành phố cưu mang, thành phố nghĩa tình, thành phố mà ở đó gắn với bao nhiêu ký ức đẹp, không thể nào nguôi quên. Nhắc về Sài Gòn, nhớ về Sài Gòn đó cũng chính là lời cảm ơn chân thành nhất xuất phát tận trong đáy sâu tâm hồn anh. Nhất là trong những tháng ngày đại dịch Covid bao phủ, hoành hành. Nhiều bài thơ chắt lắng, đậm chất trữ tình về đất và người Sài Gòn được ra đời, tạo nên những tình cảm đặc biệt. Phố bệnh, Mưa người dưng, Sài Gòn – Ngày giãn cách, Thành phố hương của đời, Người và Đất, Thành phố cưu mang, Thành phố nghĩa tình...

Những tháng ngày Đại dịch covid tràn về, nỗi lo lắng bao trùm nhất là những nơi dịch bùng phát nhiều, nơi có con cháu, người thân yêu, bạn bè ở đó thì nỗi lo lại càng nhiều hơn gấp bội. Nguyễn Tấn On cũng có nỗi thấp thỏm của riêng anh, vì ở tận phố núi Đà Lạt, nhà thơ đang lo cho con đang ở vùng tâm dịch Sài Gòn.

Đà lạt - ngày đêm mưa rả rích/ Tỉ tê từng giọt buốt hiên nhà/ Âm ỉ - lo âu mùa dịch bệnh/ Đau lòng thương nhớ con xa// Đà lạt - Sài gòn bao thân thiết/ Hai nơi hai nỗi quê nhà/ Từng đoàn người rời Sài gòn lũ lượt/ Mong con về trong nỗi thiết tha (Thành phố cưu mang).

Nguyễn Tấn On có những bài thơ cô đọng, bật lên từ những cảm xúc bất chợt trong thời gian xảy ra Đại dịch Covid.  Con nhà thơ vẫn bám trụ ở Sài Gòn, không về Đà Lạt. Vì thế, khi nghe tin con bị F0, nhà thơ chết điếng vì quá lo lắng, bởi cái chết vì nhiễm bệnh ngày càng nhiều, không biết rồi sẽ có mệnh hệ gì với con?

Tin con dính F0, cả nhà mình chết điếng/ Ánh mắt buồn sũng ướt vấp vào nhau.

May thay, con anh đã vượt qua cơn hiểm họa. Đó là điều may mắn nhưng cái quan trọng hơn cả đó là nhờ vòng tay bao dung, chở che của Sài Gòn.

Sài gòn đổi thay/ con người không thay đổi/ vẫn hiền hòa hiếu khách, bao dung/ những thùng nước bên đường làm dịu cơn khát nắng./ những cây gạo ATM nghĩa tình/ ổ bánh mì ấm lòng người cơ nhỡ/ đĩa cơm hai ngàn không tính toán thiệt hơn.

Sài Gòn đổi thay trên các phương diện khác nhau của một thành phố năng động, đầu tàu về kinh tế của cả nước nhưng có một điều thật đáng quý đó là tình người, là sự bao dung, sẻ chia trước sau vẫn không hề thay đổi. Thậm chí mỗi ngày được hun đúc thêm, bồi đắp thêm. Họ không chỉ sống cho bản thân mình mà còn sẵn sàng làm những việc nhân nghĩa cho người, cho đời...

Mưa người dưng là một bài thơ mới đọc qua tưởng như tất cả là lời tự sự giản đơn của tác giả nhưng đọc kỹ lại thấy có nhiều điều trăn trở, nhiều thông điệp mà nhà thơ muốn ký gửi.

Sài gòn - mưa đầu mùa ập xuống/ Mưa ầm ầm - ào ạt/ Mưa - vội vã - dâng trào/ Mưa thì thầm chầm chậm/ Chảy về tôi/ Ký ức// Sài gòn - những trận mưa chiều thứ 7/ Người như sông trôi trên mặt đường/ Ngày lang thang/ Cơm bụi/ Cùng người/ Mưa - che chung dù hoa/ Mưa thắm tình áo trắng/ Mưa - ấm góc giảng đường/ Mưa - thương người - người dưng// Sài gòn mưa bay hàng me xanh phố/ Mưa êm - đềm/ Mưa - bao dung/ Mưa - sẻ chia/ Mưa - hạnh phúc/ Mưa - thành đôi/ Ơn - cơn mưa - người dưng.

Điệp khúc mưa trở đi trở lại liên tục (15 lần), mưa gắn liền với bao nhiêu sự việc, mưa trở thành một biểu tượng trùng phức, mang giá trị nhân văn sâu sắc.

Đà Lạt, thành phố nơi Nguyễn Tấn On đang sinh sống cũng để lại trong anh tình cảm đặc biệt. Để rồi nhà thơ có sự so sánh rất đáng yêu, giãi bày những nỗi niềm sâu kín của mình về đất và người nơi đây. Anh nhớ em như anh nhớ Đà Lạt, một sự so sánh rất đặc biệt. Ở đây nỗi nhớ em được đặt ngang hàng với nỗi nhớ một thành phố núi nơi anh đang trú ngụ. Nỗi nhớ vừa trừu tượng, miên man, vừa hữu hình, cụ thể. Gắn liền với nỗi nhớ về em là những địa danh được nhà thơ nhắc đến, những đặc trưng về địa hình, khí hậu... có sự ảnh hưởng nhất định đến con người. Tình yêu và nỗi nhớ về em luôn hiện diện và đan cài trong tình yêu Đà Lạt. Bởi ở đó có quá nhiều những kỷ niệm!

Anh nhớ em như anh nhớ Đà lạt/ Nắng lạnh hai mùa áo khoác thân quen/ Vừa xuống đèo Prenn mà lòng đã nhớ/ Tháp Grand lycee ướt đẫm một màu trăng// Nỗi nhớ dùng dằng trên dốc Lê Đại Hành/ Ném chiếc khăn choàng vào đêm thứ bảy/ Lạnh run người mà em cứ dỗi hờn tôi/ Để sóng hồ Xuân Hương bối rối...

 

Con người trong thơ Nguyễn Tấn On là hiện diện của nỗi cô đơn, của sự khao khát khám phá, hướng đến những điều nhân bản, tốt đẹp. Ở đó, bạn đọc dễ nhận ra nhân vật trữ tình luôn tự tâm tình, đối thoại thông qua những hình ảnh, câu chữ, biểu tượng đầy ám gợi: phố tình thân, phố cưu mang, nắng quê nhà, nỗi buồn sủi tăm, mưa người dưng, tiếng dương cầm tắm gội cùng mưa, anh nhớ em như anh nhớ Đà Lạt...

Ta nợ Em – Mùa Thu gợi ra nỗi niềm trăn trở của nhân vật trữ tình thông qua những hình ảnh liên tưởng tự nhiên nhưng đầy bất ngờ và thú vị. Một cách chuyển tải vô cùng hồn nhiên, thật đáng yêu, ở đó có cả sự e ngại, dại khờ vì không có chút gì toan tính thiệt hơn mà chỉ thuần khiết một tình yêu trong sáng.

Gặp em thuở chưa là hoa/ Chỉ là búp nụ giữa chồi lá non/ Trong vườn chim hót véo von/ Một vầng nguyệt bạch vừa tròn thanh tân// Gió không rung, cây tần ngần/ Tay cầm hoa cúc lòng phân vân tình/ Mấy bài thơ giữ riêng mình/ Rồi ta cứ thế lặng thinh lên đường// Buổi về qua ngõ đồi sương/ À ơi! Sợi nắng tỏ tường - lời ru/ Ta nợ em - một mùa thu/ Trăng buông cổ độ mịt mù vàng rơi.

Viết cho ai, viết về điều gì thơ Nguyễn Tấn On cũng tự nhiên, hồn hậu. Lời thơ chậm rãi, nhấn nhá kiểu như vừa đi vừa kể một câu chuyện nhưng rất đỗi chân thành. Sự chân thành ấy đã là bản chất, là cốt cách của một người làm thơ như Nguyễn Tấn On. Anh sống chan hòa, điềm đạm, luôn yêu thương và quan tâm đến những người xung quanh anh, nhất là bạn bè và những người thân yêu ruột thịt.

Viết cho người bạn văn Nguyễn Thanh Đạm đã tạm biệt trần gian đi về cõi khác, Nguyễn Tấn On dành cho bạn bằng những lời nghẹn ngào, hụt hẫng: Bạn đi lật đật như uống rượu/ Chầm chậm thôi còn ngắm mây bay/ Bạn bè ngùi ngậm mưa như khóc/ Vợ con khăn trắng quấn heo may// Đà lạt mùa thu - mưa, không bão/ Sao lòng ta gió giật từng hồi?/ Đưa tay nâng chén còn đầy rượu/ Rưng rưng tưới xuống đất - vậy thôi!...// Giọng trầm âm ấm mềm như hát/ Nhớ bạn nhìn ly - buồn sủi tăm. Nguyễn Tấn On ví von một cách đầy hình tượng, nhà thơ gọi đó là “Nỗi buồn sủi tăm”.

Thơ Nguyễn Tấn On với những cảm xúc lắng đọng, mở ra không gian tâm tưởng đầy lãng mạn với những hình ảnh vừa gẫn gũi, giản dị nhưng đôi khi cũng mơ hồ, hư ảo đầy chất suy tưởng. Dù thơ anh đã tạo được vị thế nhất định trong lòng công chúng yêu thơ và sự đánh giá cao của những bạn bè, đồng nghiệp nhưng Nguyễn Tấn On vẫn rất mực khiêm tốn, với những lời rất đỗi chân thành, tha thiết: “Xin đừng gọi tôi - nhà thơ/ tôi chỉ gieo vần từ nỗi lòng thành hạt/ khi niềm vui, nỗi buồn tìm chút sẻ chia/ tôi ôm thơ vào lòng/ khao khát/ tiết tấu buồn trong tiếng vỗ tay vui”.

Nguyễn Tấn On cũng có một nguyện ước đáng để những người yêu thích và nghiên cứu văn chương suy ngẫm - khi anh đã ý thức một cách sâu sắc về cuộc đời, về thơ trong một cái nhìn đa diện, đa chiều. Để rồi, người thi sĩ Nguyễn Tấn On phải thốt lên lời tâm huyết, khẩn cầu: “Thơ ta xin thả lên trời”.

Những vần thơ cháy bỏng/ Khao khát và đam mê/ Bao bài thơ hoài niệm/ Một thời núi nghiêng vai// Đây bài thơ truyền thống/ Có cánh cò chiều đông/ Đây câu thơ hiện đại/ Thất tình em sang sông// Chiều cuối năm gặp bạn/ Bằng trường phái Đa đa/ Cắt dán chữ hảo hán/ Rượu chưa say nhớ nhà//... Thơ. Không có ranh giới/ Giữa lãnh thổ quốc gia/ Nhưng. Nhà thơ phải có/ Đất nước quê hương mình.

N.V.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm