TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Những nẻo đường sáng tạo thơ ở một số thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời hiện đại”

“Những nẻo đường sáng tạo thơ ở một số thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời hiện đại”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-10-26 00:01:16
mail facebook google pos stwis
854 lượt xem

Thái Hải Đăng

Nhà phê bình văn học là người có tâm hồn giao cảm mãnh liệt với từng lời văn, con chữ và những giai điệu du dương của thơ ca. Họ đã có những cảm nghiệm sâu sắc giữa thơ văn và đời mình. Với họ, mỗi tác phẩm văn học không chỉ là một tư tưởng cần được khám phá mà còn là một thế giới sống động, nơi những dòng chữ biết thủ thỉ cùng tâm hồn.

Từ trái sang: Thái Hải Đăng ; Hoàng Quốc Hải; Hoàng Kim Đáng; Phùng Văn Khai

Như một triết gia say mê khám phá vẻ đẹp của ngôn từ, một y sĩ tận tâm mổ xẻ từng thớ rung cảm tinh tế của nhân vật trữ tình trên trang thơ, PGS.TS Phùng Minh Hiến đã nghiên cứu nhiều tác phẩm văn chương trên tinh thần khoa học nhân văn đầy nhiệt huyết và đam mê. Sự hòa quyện giữa trải nghiệm cá nhân và hiểu biết chuyên sâu đưa ông trở thành người dẫn đường tận tụy, mở ra những chân trời mới cho người đọc, giúp họ cảm nhận và trân trọng hơn vẻ đẹp và sức sống của thơ ca Việt Nam.

Chúng tôi biết đến PGS Phùng Minh Hiến qua tác phẩm “Những nẻo đường sáng tạo thơ ở một số thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời hiện đại”. Trong tác phẩm này, tác giả không chỉ bộc lộ cảm nhận bằng đôi mắt cá nhân sâu lắng mà còn sử dụng tri thức khoa học để phân tích hầu như toàn bộ các sáng tác của ba nhà thơ nổi tiếng: Hàn Mặc Tử, Huy Cận và Trần Đăng Khoa. Tập nghiên cứu phê bình gồm ba chương đã mở ra những điểm nhìn mới mẻ: Chương 1 với những con vật sống gần gũi, thân thiện bên cạnh con người; Chương 2 với những cây cối quanh nhà và ở ngoài đồng; Chương 3 với những hiện tượng và vật thể trong tự nhiên.

Trong tập phê bình này, PGS.TS Phùng Minh Hiến đã vận dụng khái niệm “sinh thể nghệ thuật” để nhấn mạnh tính chất “toàn vẹn hữu cơ” của các sản phẩm thi ca được sáng tạo nên. Khái niệm này đã được ứng dụng rộng rãi và không gây nhiều tranh cãi trong các tác phẩm sử thi, tác phẩm truyện. Tuy nhiên, việc “tìm tòi và xác định” đặc tính phẩm chất “sinh thể nghệ thuật” của thơ ca trữ tình vẫn còn mới mẻ và mở ra nhiều hướng nghiên cứu. Chính quá trình khám phá và xác định những đặc tính này giúp người đọc hiểu rõ hơn về tâm hồn và phong cách của từng nhà thơ, tạo ra sự kết nối sâu sắc giữa độc giả và tác phẩm. Bởi lẽ, thơ ca phần nhiều được sáng tác dựa trên cảm xúc của tâm hồn, và những trường cảm xúc này luôn tồn tại song song giữa khác biệt và thống nhất bên trong mỗi tác giả. Khác biệt này làm nên sự đa dạng trong thơ ca, trong khi sự thống nhất tạo nên phong cách độc đáo, đặc trưng cho từng ngòi bút thi nhân.

Trong việc hệ thống lại hầu như toàn bộ các tác phẩm của ba nhà thơ lớn, PGS.TS Phùng Minh Hiến đã gợi mở những lý do dẫn đến thành công xuất sắc cũng như một số trường hợp chưa thành công trong sáng tác của họ. Người đọc sẽ nhận thấy tiến trình vận động trong chuỗi những điểm nhìn nghệ thuật của các nhà thơ. Tuy nhiên, tác giả không đi đến kết luận về sự hay - dở, khen - chê các tác phẩm thơ ca, mà để phần việc này cho bạn đọc tự cảm nhận với đôi mắt nhìn nhận nghệ thuật của riêng mình. Thay vào đó, tác giả tập trung trình bày ý tưởng của nhà thơ, thông qua các điểm nhìn nghệ thuật mở ra các tầng nghĩa trong câu thơ, dấn thân vào tâm hồn các nhân vật trữ tình trên trang thơ để khám phá tâm hồn và những điều thi nhân gửi gắm. PGS.TS Phùng Minh Hiến đã khiêm tốn nép mình, nhường đường cho tâm hồn độc giả vẫy vùng trong thế giới cảm thụ của riêng mình.

Để khám phá thế giới sinh động luôn vận hành trong trang thơ và tâm hồn thi sĩ, tác giả không chỉ hệ thống các tác phẩm đã có mà còn mở rộng nghiên cứu bằng phương pháp so sánh với các thi nhân và thi phẩm nổi tiếng khác. Cùng là người câu cá ở ao làng, nhưng “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến lại có những điểm nhìn nghệ thuật khác biệt so với bài thơ “Câu cá” của Trần Đăng Khoa. Trong khi đó, cùng là ánh trăng đêm, nhưng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện dày đặc hơn cả so với các nhà thơ khác. Bóng trăng trong thơ thi sĩ họ Hàn mang màu sắc ma mị, lạnh lẽo, hoang vu, mơ màng, da diết và đầy thương đau, tạo nên một bức tranh trăng độc đáo và sâu sắc. Tác giả đã gợi mở về sự biến đổi và “tiến hóa” trong cách nhìn nhận và diễn đạt của từng thế hệ thi sĩ. Cùng là cảnh vật thiên nhiên, nhưng cảm xúc và tư duy của mỗi nhà thơ lại tạo nên những sắc thái riêng biệt, phản ánh những tâm hồn và cuộc đời khác nhau. Những phân tích và so sánh này giúp người đọc không chỉ hiểu sâu hơn về các tác phẩm mà còn cảm nhận được những rung động tinh tế, những tư tưởng và triết lý sâu sắc ẩn chứa trong mỗi câu thơ.

Để tìm ra những khác biệt đặc trưng này, PGS.TS Phùng Minh Hiến có lẽ đã thực hiện nhiều chuyến phiêu lưu vào tâm hồn thi sĩ, thể hiện cái gọi là “cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Mặc dù tác phẩm không đào sâu nghiên cứu đến hiện thực cuộc sống đời thường, tác giả cũng đã gợi mở nhiều hướng suy tư cho bạn đọc tìm đến những nguyên nhân tác động đến điểm nhìn nghệ thuật của mỗi thi nhân.

Trước cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận thường mang phong cách trầm buồn, triết lý và suy tư về cuộc đời. Sau cách mạng, thơ ông lột xác hoàn toàn mới mẻ, luôn bám sát hiện thực cuộc sống, phản ánh sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước và con người Việt Nam. Thi sĩ Trần Đăng Khoa lại nổi lên như một hiện tượng đặc biệt trong làng thơ Việt, đặc biệt khi còn rất trẻ, ông đã mang đến những lời thơ giản dị, trong sáng, gần gũi với thiên nhiên và lạc quan về cuộc sống. Trong khi đó, thơ Hàn Mặc Tử chứa đựng những cảm xúc trào dâng mãnh liệt, phức tạp và có phần đớn đau bởi phần đời đau bệnh, cô đơn của mình. Bóng trăng đặc trưng trong thơ ông không chỉ là một hình ảnh thiên nhiên tả thực mà còn là biểu tượng cho những nỗi niềm sâu thẳm, khát khao vượt thoát khỏi thực tại khắc nghiệt.

PGS.TS Phùng Minh Hiến đã khéo léo mở ra cho người đọc những góc nhìn mới mẻ về tâm hồn và cuộc đời của các thi nhân. Sự thay đổi trong phong cách sáng tác của Huy Cận từ trước đến sau cách mạng, sự trong sáng, gần gũi của Trần Đăng Khoa từ thuở thiếu thời đến khi trưởng thành, hay nỗi đau và sự cô độc trong thơ Hàn Mặc Tử đều được tác giả khám phá và phân tích một cách khoa học, uyển chuyển. Từ lối so sánh này, giúp bạn đọc nhận ra rằng mỗi nhà thơ đều có một hành trình sáng tạo riêng, chịu ảnh hưởng từ hoàn cảnh sống, từ những biến động xã hội và từ chính tâm hồn nhạy cảm của mình.

Khách quan mà nói, tác phẩm “Những nẻo đường sáng tạo thơ ở một số thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời hiện đại” của PGS.TS Phùng Minh Hiến không dễ để thấu hiểu tường tận, đòi hỏi bạn đọc cần có một thái độ nghiêm túc và kiên nhẫn trong khi tiếp nhận. Tập sách vận dụng nhiều thuật ngữ và khái niệm chuyên sâu dành cho công tác phê bình văn học, điều này có thể gây khó khăn cho những ai chưa quen thuộc với lĩnh vực này.

Tuy nhiên, đây cũng chính là điểm mạnh của tác phẩm, bởi sự chuyên sâu và học thuật sẽ mở ra những tầng nghĩa mới, giúp bạn đọc đi sâu vào thế giới thơ ca của ba nhà thơ lớn. Để hiểu rõ hơn những vấn đề và thuật ngữ được nhắc đến trong quyển sách này, bạn đọc nên tham khảo thêm tập sách chuyên luận “Tác phẩm văn chương - Một sinh thể nghệ thuật” mà PGS.TS Phùng Minh Hiến đã công bố trước đó. Tập sách này sẽ cung cấp nền tảng lý thuyết cần thiết, giúp bạn đọc tiếp cận và thấu hiểu sâu sắc hơn những luận điểm và phương pháp phân tích của tác giả. Việc kết hợp giữa hai tác phẩm này không chỉ nâng cao khả năng thẩm thấu văn học của bạn đọc mà còn giúp chúng ta nắm bắt được toàn diện hơn những góc nhìn nghệ thuật, sự sáng tạo và phong cách độc đáo của các nhà thơ.

Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS Phùng Minh Hiến đã dày công nghiên cứu tác phẩm “Những nẻo đường sáng tạo thơ ở một số thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời hiện đại”. Đây quả thực là một tài liệu khoa học quý giá, giúp chúng tôi tìm hiểu rõ hơn về sự nghiệp và phong cách sáng tác của các nhà thơ lớn. Đặc biệt, với lối phân tích so sánh “các sinh thể nghệ thuật đặc trưng” khác nhau tương ứng với mỗi “hệ nẻo đường sáng tạo” của ba thi sĩ Hàn Mặc Tử, Huy Cận và Trần Đăng Khoa, tác giả đã dẫn dắt chúng tôi đến với những tầng nghĩa sâu sắc nhất mà bản thân chưa thể am tường. Chúng tôi rất mong chờ được khám phá những tác phẩm nghiên cứu và phê bình văn học tiếp theo của ông.

T.H.Đ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm