TIN TỨC

Phiêu hoang cùng “gã thi sĩ hoang” | Vũ Tuấn

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng: 2023-05-03 17:23:41
mail facebook google pos stwis
1368 lượt xem

Trong thơ Thi sĩ Nguyễn Thánh Ngã rất nhiều câu có biểu tượng như một “Sologan”, có giá trị khơi nguồn năng lượng tâm linh...

Nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã

Ông chứng nhập tinh thần Phật giáo vào ngôn ngữ thơ ca thanh thoát, bay bổng, biến ảo lạ thường. Nhiều câu thơ giống như công án thiền. Người đọc cứ loay hoay với những đáp án mà không chọn được đáp án nào khả dĩ có thể làm thỏa mãn cảm xúc của mình. Bởi công án thiền không có đáp án.Ngôn ngữ mang hơi thở thiền làm cho hơi thơ càng đa âm, đa thanh hơn khi rót vào trạng thái thụ cảm của người đọc.

Tôi thích những bài thơ ngắn của ông, ngắn mà không ngắn, càng đọc càng thăm thẳm…Có nhà thơ nói “Tôi không có thời gian viết ngắn”. Viết ngắn nhưng trường năng lượng của người viết rất dài, nội lực rất sâu, như một đĩa nén tâm thức, thấu triệt, minh triết.

“Hãy buồn đi em

                   Vì nỗi buồn như chiếc nón

                   Có thể che mát bầu trời”

                              (Buồn)

Năng lượng thiền có khả năng đưa ta đến những cảnh giới ta muốn. Nó cũng có khả năng “điều tiết”cả vũ trụ này khi nó đạt đến một cấp độ cần thiết, trong một “sát- na tâm”là “ý”:

                    “Ý nghĩ

                    Ôi ý nghĩ linh thiêng

                    Nếu ý nghĩ là cánh chim

                    Dù bầu trời cao rộng mấy

                    Nó cũng bay về đồng xanh

                    Nhặt thóc

                    Nhưng nếu ý nghĩ chỉ là giọt nước

                    Nó sẽ bốc hơi

                    Và khiến cả bầu trời giông tố”

                                        (Ý)

Năng lượng thiền có khả năng “kích hoạt” tâm thức, đánh động tâm thức, bùng vỡ tâm thức; làm thăng hoa những câu thơ, thoạt nghe có vẻ nghịch lý nhưng chẳng khác nào như một sự “mặc khải” làm khó chịu những suy nghĩ nông cạn hời hợt:

“càng

giàu

chúng

ta

càng

rỗng

túi

niềm

tin”

( Rỗng túi)

 

“Đứa trẻ” là bài thơ đoạt giải nhất cuộc thi Hai-ku năm 2009 của ông như một lát cắt cuộc đời, nhẹ , chậm…tuy ít chi tiết nhưng giống như một truyện ngắn cô đặc lại. Có thể dàn dựng thành một bộ phim thú vị!

                         “Xó chợ

                         Chiếc lon trống

                         Hạt mưa mồ côi”

Chín chữ thôi nhưng ta có cớ để “bàn”. Chín chữ thôi mà đeo mang bao thân phận nỗi niềm, nhân sinh, thế sự. Có người cho rằng bài thơ không thuần túy phong vị thơ “haiku” Nhật Bản. Nhưng thử hỏi một nhà thơ Việt Nam, sống và cảm nhận hương sắc cuộc đời trên đất nước của mình, làm sao có thể viết thơ “haiku” mang hơi thở của xứ sở hoa anh đào, của đất nước “mặt trời mọc”? Xét kỹ, nếu đặt bài thơ vào mọi “xó chợ” trên mặt đất này, dù ở đất nước nào cũng có phần đúng với tất cả.Với tôi, bài thơ thành công và nói được nhiều điều hơn những gì mong đợi!

Thơ ngắn nhưng mang lại cho người đọc sự suy tưởng và chiêm nghiệm không có điểm dừng.Tố chất này có được là do thi sĩ của chúng ta biết thực hành “thiền”, ông biết tiết chế, dừng lại đúng lúc mà vẫn có khả năng làm cho câu thơ lan tỏa:

                        “khi chúng ta ký họ tên mình

                         vào những đám mây

                         mây sẽ mang mưa xuống

                         lưu vào đất đai

                         chờ ngày nhận diện”

                                    (Hóa thân)

Cái nhìn của thi sĩ là cái nhìn của con mắt “thứ ba”. Cái nhìn trực diện mà không lộ diện trong thơ. Sự tiết chế ngôn ngữ là một dụng công để “treo” sự cảm nhận của bạn đọc lên cành cây nghệ thuật; tạo ra cảm giác vừa thích thú, vừa hồi hộp trong trò chơi ngôn ngữ “mạo hiểm” cho điểm rơi của tứ thơ được “bọc lót” rất dễ chịu!

Với thể thơ ngắn, kiệm lời, mỗi câu chữ, mỗi dấu chấm câu… là một “mã khóa” đặc biệt được cài cắm không dễ tìm. Đọc hết bài thơ, phải quay lại điểm xuất phát xâu chuỗi những ký tự, giải mã, nhận diện bài thơ ; có khi “chìa khóa” nằm trong nhan đề, “nhan sắc” bài thơ lúc này mới “xuất đầu lộ diện” :

                   “sẽ không có gì quan trọng

                   nếu em không yêu tôi

                   sẽ chẳng có gì trầm trọng

                   nếu em không lấy tôi

                   nhưng vườn cây của hồn tôi đã đơm hoa kết trái

                   và mùa màng đã cưới nhau từ lúc giao mùa”

                                       (Tiệc cưới)

“Tiệc cưới” chính là chìa khóa của bài thơ, mở ra cánh cửa tình yêu vô tận, mà ở đó không đợi “người tình” thiên nhiên ban tặng; “gã thi sĩ hoang” đã phiêu tự lúc nào…với lễ hội hóa trang phồn sinh, làm cuộc truy hoan bản thể. Khai sinh và đơm hoa kết trái yêu thương. Khai phóng đam mê cùng vạn vật đất trời, vượt thoát bản năng rồi lại hòa nhập trở về với chính mình! Bạn đọc, nếu bạn có cùng nhãn quan và cảm quan thấu triệt với cái nhìn của thi sĩ thì bạn mới thấy thích thơ loại này. Điểm tương đồng này trong thiền học được nhận dạng bằng “đẳng cấp tâm linh”. Dĩ nhiên bạn phải có một chút am hiểu về thiền và có chút “ tuệ giác”…

Tôi cũng thích những bài thơ tự do của ông, nó phóng khoáng, như một vườn hoa nhiều hương sắc, nhưng lại được trồng tỉa, xếp đặt rất chỉnh chu. Có những cánh cửa mở ra, đóng lại đúng lúc. Gợi mở nhiều hơn, nói được nhiều hơn. Ấy cũng là do sự thăng hoa của tài hoa. Phẩm chất tài hoa người làm thơ nào cũng có. Ở Nguyễn Thánh Ngã, tôi thấy tố chất tài hoa của ông đậm đặc hơn, làm cho mỗi câu thơ “có chất” hơn, dù đề tài không phải chuyện to tát. Bởi văn chương có điều kỳ lạ làm mê đắm trái tim bạn đọc, không phải là viết về cái gì mà là viết như thế nào.Viết như thế nào chính là bí mật tuyệt vời của thi nhân khi hạ bút:

               “Một giọt nước dành cho một đóa hoa sắp nở

               Trên mặt đất trống hoác cằn khô…

               Bầy kiến kéo đến âm thầm

               Và cành cây run lên

               Sự khao khát khiến chúng tranh nhau

               Giọt

               nước!

               Chỉ một giọt thôi

               Rơi nhoài theo bầy kiến

               Ôi

               bông

               hoa

               hé

               nở

               đón

               nụ

               hôn

               từ

               trời…”

                   (Sống như giọt nước)

Lấy chất liệu từ thiên nhiên, dựng lập cảm hứng sáng tạo từ thiên nhiên, có thể nói Nguyễn Thánh Ngã đã mở hết biên độ hồn mình hòa nhập với thiên nhiên. Ngược lại, thiên nhiên cũng cho ông những tứ thơ, những câu thơ, bài thơ sang trọng nhất. Để cuối cùng Thơ là vật “bảo chứng” số một làm sáng lên tên tuổi và phẩm cách một Thi sĩ đích thực.

Nói thế không có nghĩa ông hướng ngoại xa xôi, chính lúc nhận được của “tứ đại” nguồn năng lượng tối ưu đó, thơ ông lại tìm cách quay về nhìn sâu vào nội tâm mình một cách chân thật nhất mà không kém phần “phiêu hốt”, bảng lảng khói sương, hư hư thực thực…! 

Thơ ông đưa ta gần đến trạng thái “sống với” nhiều hơn “sống cùng”; tương tác nhiều hơn thụ cảm. Tên các bài thơ phần nào đã nói lên điều đó : “đưa mây qua sông”, “tiếng nước vang”, “chiếc bóng rách”, “buổi sáng uống tiếng chim”…

Điều đó thể hiện rõ phong thái sống đúng chất mà ông đã chọn cho mình; khi dành gần như cả đời để làm thơ, theo trường phái thơ “haiku” nói ít gợi nhiều, chấm phá tối giản mà bức tranh thơ đầy sắc màu, hàm ngôn sâu lắng…

                   "Buổi sáng uống tiếng chim

                    Chùm véo von trôi vào cổ họng

                    Mới hay lòng mình vườn hoang…

                    Cỏ dại

                    Không ai phát dọn

                    Lối mòn thành hang ổ cáo chồn

                    Ta thành kẻ ẩn nấp trong ta

                    Tiếng chim

                    Như những cung bậc thanh âm

                    Lắng vào cây cỏ

                    Ta uống say những nốt lặng tự do

                    Hang ổ sáng trong

                    Cáo chồn ngửa mặt

                    Lòng mình rửa sạch

                    Uẩn khúc trôi đi trên cung dây

                    Hồn bừng lên thánh thót

                    Ôi vườn hoang /vườn hoang

                    Năm giác quan mở cửa chân trời

                    Đôi mắt vẽ đường bay đến hương thơm vô tận

                    Tai có thể nghe tia ánh sáng

                    …

                    Thèm tiếng chim trong từng tế bào gội rửa

                    Và lời mách bảo của trái tim

                    Về tiếng nói trong hoang lặng đã bị đánh cắp…

                                   (Buổi sáng uống tiếng chim)

Mở năm cửa giác quan để cảm nhận từ trường vũ trụ, thu hết mọi kích cở âm thanh sống động của đất trời cốt chỉ để gột rửa hồn mình. Phải chăng đây là cách “sám hối” để lắng lọc thân tâm giữa “uất nghẹn tiếng ồn ô nhiễm”, giữa “cơn ói trào ngược”, giữa “những sáng buồn nôn” đời thường pha tạp? Chỉ còn cách luyện thở này mới làm cho hồn thơ trong trẻo quay lại với chính mình. Khi mà “tiếng nói trong hoang lặng đã bị đánh cắp…”. 

Vâng đúng vậy! Con người hiện đã bị “đánh cắp” nhiều thứ vì không đủ sức giữ mình trước cám dỗ nhiều chiều của đời sống.

Ai đủ tỉnh táo để tìm ra bầu sinh quyển trong lành cho lá phổi xanh của chính mình và thiên nhiên quanh mình?! Khi mà con người hiện đại đã hướng ngoại tìm cầu rồi lạc lối, không nhớ nẻo quay về, để mặc hồn mình cằn khô. Khi mà đời sống văn minh quay cuồng với nhịp sống gấp, bất chấp tất cả, con người có nguy cơ dẫm đạp lên nhau để tồn tại. Khi mà nhân tính, nhân văn, nhân bản bị hạ thấp, may mắn còn tiếng nói của nhà thơ - người mang sứ mệnh tỉnh thức con người. Thông điệp thơ ca đi trước và có giá trị cảnh báo những lệch lạc trong đời sống, trong nhận thức con người.

Bằng cảm quan nghệ thuật nhà thơ lặng lẽ lên tiếng. Đó chính là tiếng nói tạ lỗi với thiên nhiên. Bằng bầu nhiệt huyết yêu thiên nhiên tha thiết nhà thơ thốt lên. Đó chính là tiếng nói của lương tri thời đại. Con người muốn trường cửu hãy để mẹ thiên nhiên cũng phải tự nhiên trường cửu!

Nguyễn Thánh Ngã - nhà thơ được mệnh danh là “Gã thi sĩ hoang” nhưng chất thơ trí tuệ; chất đời sống động mà chân tình. Có lúc ngỡ như ông viết ngẫu hứng, trong guồng quay bất tận của “vô thường”. Nhưng không hẳn thế, ông lập tứ rất kỹ, khéo vun vén điều muốn tỏ bày, khéo tránh sự thô lậu tỏ lộ…Tuy nhiên có lúc ông cũng bị rơi vào sự trùng lắp của câu chữ trong một bài thơ. Nên diễn đạt dài dòng, lẽ ra cần phải “tỉa gọt” gọn hơn. Thơ chỉ cần cắm lại chi tiết đặc sắc, hình tượng đặc sắc. Nhưng đó chỉ là tiểu tiết. Tổng thể, đọc thơ ông, ta luôn nhận được năng lượng tích cực!

Ông có hỏi tôi nghĩ thế nào về chữ “hoang”? Tôi cố tình không trả lời trực tiếp như cách thông thường hỏi, đáp.Tôi nói hãy để cho bạn đọc “đồng sáng tạo” là thêm một trường nghĩa, là chắp thêm đôi cánh liên tưởng cho thơ, là mở ra cánh cửa “Windows” vô tận ý…!

Con chữ nằm trên văn bản là con chữ chết. Con chữ đi qua đôi mắt bạn đọc là con chữ có linh hồn. Nếu muốn thì ta có thể tra từ điển để truy nghĩa của một con chữ. Nhưng tôi biết ông cũng như tôi, hỏi chỉ là hỏi, và trả lời chỉ để trả lời. Bởi lúc này con chữ đã có đời sống khác. Thi sĩ hay bạn đọc không còn khả năng “gò cương” níu giữ nó được nữa…

                     “Tôi-gã thi sĩ hoang

                      Như bông cỏ dại

                      Nở mặt sương mù

                      Màu là giấc mơ

                      Bông cỏ dại bị dẫm đạp

                      Hòn đá lăn

                      Tứ thơ dập nát ven đường

                      ……

                     Thi sĩ loài không mọc tóc

                     Loài không đội mũ trên đầu

                     Chỉ có nắng ngang tàng và mưa bao dung ôm chầm 

                     bông cỏ          

                     Ôi bông cỏ hoang,

                     Mi là quê hương của tứ thơ ta - gã thi sĩ đồng làng, 

                     xó núi

                     Mọc là mọc một tình yêu hoang dại

                     Trước gian trá lọc lừa

                     Ta có thể bị vất đi dưới lưỡi cuốc ranh ma

                     Nhưng loài cỏ âm thầm sức chịu

                     Câu thơ có thể nằm nghiêng trổ một đóa nỗi buồn…”

                                             (Gã thi sĩ hoang)

   Khi “câu thơ có thể nằm nghiêng”, hoặc trong trường đoạn nào đó buộc phải nép mình nằm nghiêng ; ta mới hiểu được sức chịu đựng của thi sĩ trước bao nhiêu “bức ngặt” của cuộc đời.

   Hạnh phúc và may mắn vô cùng !

   Chính lúc ấy có một đóa “vô ưu” đã trổ…!

 

                                      (Sài Gòn 4/6/2022)

                                           V.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm