TIN TỨC

Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-25 21:43:10
mail facebook google pos stwis
540 lượt xem

MAI VĂN PHẤN

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.

 

Tiến sĩ, nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh

 

“nghĩa âm

chữ dương

đường lời sinh tử”

Nguyễn Thị Thúy Hạnh

 

Thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh là hành trình kiến tạo chữ. Với chị, ngôn ngữ vừa là phương tiện biểu đạt vừa là đối tượng sáng tạo, một sinh thể có đời sống riêng: biết hít thở, đau đớn, yêu thương, tái sinh. Chữ trong thơ chị trở thành trung tâm của mọi thao tác nghệ thuật và suy tưởng, được hình dung như một thân phận, mở ra cho thơ khả thể sáng tạo vô tận. Qua “Di chữ” (NXB. Hội Nhà văn, 2017), “Văn học vết thâm” (NXB. Hội Nhà văn & Nhã Nam, 2021) và những sáng tác gần đây, có thể thấy hành trình chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh luôn hướng tới một thế giới khác: vừa khai mở tầng sâu nội tâm, vừa kiến tạo cõi thơ riêng biệt.

“tôi chỉ có bàn tay

cầm ngôn ngữ đau thương

không bản mặt tuyệt đối

tôi chỉ có một mình”

(Buồn thứ tự)

Khổ thơ tựa mảnh gương soi chiếu những bước đi đầu tiên của tác giả trong tập thơ “Di chữ”. Ở đây, ngôn ngữ không còn là lớp áo khoác, mà thành chính “bàn tay” để kiến tạo thế giới; nó gợi mở một cảm quan thi ca quyết liệt: làm thơ không nhằm đi tìm sự vĩnh cửu hay tuyệt đối, mà dấn thân vào hiện hữu mong manh, nhiều khi chỉ còn lại sự cô đơn. Cũng chính từ đó, ngôn ngữ trở thành sức mạnh duy nhất để kiến tạo, để cất tiếng, để tiếp tục tồn tại giữa những bất toàn.

Trong lời mở tập thơ “Di chữ”, Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã viết: “Ngôn từ - một tồn tại cưu mang, cho phép tôi bất chấp mọi nỗi bi ai mà tin rằng, ngay cả khi ở dưới vực thẳm, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy những đám mây bay - những đám mây thơ; cho phép tôi, khi tỉnh cuộc lẫn tàn canh, tạ ơn loài người yêu dấu bên mình./ Người làm thơ, có thể bằng thơ ca mà sống một cuộc sống khác, từ thơ ca để được tái sinh.” Những dòng tự bạch này khẳng định: chữ là nơi trú ngụ của linh hồn, là sức mạnh để con người hồi sinh, ngay cả trong tuyệt vọng.

Từ nhan đề tập thơ “Di chữ”, nhà thơ đã gợi ra sự dịch chuyển, rời bỏ, tái định vị liên tục của chữ, đồng thời cũng hàm nghĩa lưu giữ, di sản. Trong thơ chị, chữ không bao giờ đứng yên trong những trường nghĩa quen thuộc, mà luôn chuyển động, va đập, mở ra dư địa mới. Mỗi chữ vừa mang dấu ấn cá nhân, vừa chất chứa ký ức cộng đồng và ý nghĩa phổ quát.

“thân thể tôi liệm bằng chữ, chữ cười buôn buốt”

“Nơi hợp chủng quốc ngôn ngữ

tôi phiên dịch tôi

tôi chảy một dòng sông khác”

(Những cuộc gặp dưới chân thánh giá)

Trải nghiệm chữ được dồn tụ thành ranh giới giữa hiện hữu và hư vô, giữa sự tan rã của thân thể và khả năng cứu rỗi của ngôn từ. Ở đó, chữ trở thành chất liệu để khâm liệm, là dòng chảy để tái sinh; mang tính hủy diệt nhưng cũng mở ra khả năng chuyển hóa. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh chữ được đặt vào những tình thế cực điểm – nơi con người bị thử thách khốc liệt, để rồi từ chính ngưỡng cửa ấy, ngôn ngữ lại khai mở một lối đi khác. Có thể xem đây như một bước vượt thoát: chữ không còn gắn với nỗi đau cá nhân đơn lẻ, mà nhập vào dòng chảy mạnh mẽ, trở thành hành trình dịch chuyển bất tận. Thơ, vì thế, là cuộc lưu trú miên viễn trong – qua – sau chữ, nơi mọi giới hạn lại mở ra một cơ hội hóa sinh.

Từ cuộc khởi hành “Di chữ”, Thúy Hạnh đã khai mở thế giới chữ quấn quyện, sinh sôi: “những con chữ múa gươm”, “chữ lim dim”, “chữ rầu bóng tối”, “chữ vô nghĩa ý”, “những con chữ gân xanh chằng chịt”, “những con chữ sốt rét”, “cung phi chữ”, “dan díu chữ”, “những câu thơ chữ thập”… Sự phong phú ấy được tiếp nối trong những bài thơ mang tên “Phố chữ”, “Chữ”, “Cung phi từ”… như một khẳng định rằng mọi sáng tạo đều khởi phát từ chữ, xoay quanh chữ và trở về với chữ. Trong kiến tạo này, chữ trở thành một xã hội thu nhỏ, nơi nhà thơ trao cho nó thân phận con người, với cảm xúc, dục vọng và cả sự bất toàn. Tính đa hình sắc ấy đặt nền móng cho thế giới thơ đặc thù của Nguyễn Thị Thúy Hạnh: một thế giới “thậm phồn”, luôn triển sinh và tự lấp đầy, nơi chữ có thể phân thân để nhân lên sức sống, mở ra những chiều kích thẩm mỹ không giới hạn.

“Di chữ” đã hiện diện như chính khát vọng và lý tưởng của người viết: “ta đi giặt áo thơ/ mặc mới một mùa chữ” (bờ cổ), “tôi tái sinh lời/ chữ tái sinh tôi” (Thanh minh), “tôi một đời ăn chữ/ nay tôi nhả ra tim" (lựa chọn), “không ai có thể giết tôi được, tôi tự vệ bằng từ/… tôi thở bằng ngôn ngữ khác, tôi xới hành trình khác, tôi mặc một thế giới khác, tôi cầm tay những người lạ mặt./ đám ma tôi quan tài chất đầy sách, thân thể tôi liệm bằng chữ”… Ngôn ngữ được đẩy đến giới hạn: trở thành thân thể, thành vũ khí tự vệ, thậm chí thành cả cỗ áo quan để khâm liệm. Nó đồng thời mang tính song trùng: nuôi dưỡng và hủy diệt, triển nở và ám ảnh bởi cái chết. Chính trong nghịch lý ấy, chữ mở ra biên độ và hàm nghĩa mới. Với Nguyễn Thị Thúy Hạnh, chữ vừa là môi sinh, vừa là lối vượt thoát.

“Trên dây đàn

lả lướt

những ngón tay như hoa huệ như sóng lượn như cầu vồng

như con thuyền

đậu vào một bến sông.”

(Nhạc tranh)

Chữ biến thành cõi sống, chạm vào ký ức, khơi dậy niềm vui, nỗi buồn, khát vọng, đồng thời kiến tạo một thế giới phồn sinh, xung động, hủy diệt, tái tạo... Hành trình trong “Di chữ” là cuộc thử nghiệm cực điểm, nơi chữ vượt khỏi chức năng ký hiệu để trở thành nguồn năng lượng sáng tạo, cuộn xoáy và lan tỏa trong đời sống tinh thần. Từ đó, nhà thơ mở ra một thế giới thơ không ngừng biến đổi, luôn tiềm ẩn những khả năng trong đối thoại giữa ngôn ngữ, thân phận và nhân sinh.

“Di chữ” mở ra thế giới thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh, nơi cảm xúc và trải nghiệm cá nhân mở rộng thành suy tư về tình yêu, tuổi trẻ, ký ức, những chuyến đi xa, về Hà Nội, lịch sử và văn hóa. Đồng thời, thơ chạm tới những ám ảnh thân phận, nỗi đau và sự mất mát, những dằn vặt dục vọng, những day trở của tôn giáo – tâm linh, ký ức chiến tranh và bi kịch nhân loại. Đó là không gian đối thoại đa tầng, nơi ý nghĩa chồng lấn và đan xen, buộc người đọc vừa theo dõi nhịp xao động của nội tâm, vừa nhập cuộc vào các liên tưởng rộng mở của cộng đồng, nhân loại. Trong chiều sâu ấy, văn chương, nghệ thuật và ngôn ngữ hiện lên như định mệnh, như vết thương, cũng là nơi cưu mang và giải thoát.

Nếu “Di chữ” khẳng định chữ như một hữu sinh gắn với thiên tính nữ, thì tập thơ “Văn học vết thâm” đã đưa hành trình chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh đi xa hơn: chữ xuyên qua vùng tối, lắng đọng ký ức cá nhân và cộng đồng, hòa giữa nỗi đau riêng và thương tích lịch sử. Ngay từ nhan đề, tập thơ đã gợi một sắc thẫm ám ảnh: chữ mang trên mình vết bầm, dấu chỉ khó phai, trở thành chứng nhân cho những trải nghiệm của cá nhân lẫn tập thể.

“anh chờ em mùa thu

nói rằng sẽ gửi cho anh

một email khi nỗi nhớ tràn vực chữ

cơ thể anh đã chất đầy mưa úa”

(Email);

“em bảo anh đừng buồn nữa nghe không

dẫu ngày mai cuộc đời khép cửa

anh biết mình vẫn sống được qua ngày

bằng chữ”

(Xô nát thị thành)

Chữ trở thành dòng chảy phức hợp, nơi dồn tụ khát vọng và cả tuyệt vọng. Trong "Email", chữ mở ra tựa vực thẳm, gắn với mất mát, chia lìa, ở "Xô nát thị thành", chữ lại hóa nơi nương náu cho bi kịch, đổ nát. Cả hai khổ thơ đều cho thấy chữ đã rời khỏi quỹ đạo thuần túy, mở biên độ rộng lớn, nơi chữ va đập trực diện với đời sống, với sự xói mòn, với khát vọng tồn sinh. Sự chuyển dịch ấy cho thấy trong hành trình của Nguyễn Thị Thúy Hạnh, chữ đã vượt khỏi tính nữ trong "Di chữ" để kiến tạo một thế giới khác: phong phú mà hỗn loạn, chan chứa tình cảm mà cũng đầy bất trắc. Chữ ở đây bạo liệt và mong manh hơn, có thể nâng đỡ con người vượt qua vực thẳm, nhưng cũng phơi bày những thương tích khó lành. Chính sự căng kéo ấy đã làm nên một thế giới đa thanh, biến động, chạm tới những cung bậc sâu nhất của tâm hồn.

Trong “Văn học vết thâm”, cảm hứng thơ được mở rộng từ kinh nghiệm riêng tư, tình yêu và khoái cảm, đến những ám ảnh mang tính xã hội và lịch sử. Các bài thơ như “Người ch/nữ”, “Đường về nhà” không chỉ phơi bày bi kịch của phụ nữ, mà còn gợi nhắc ký ức chiến tranh và hậu chiến. Ở giai đoạn này, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh cộng hưởng với những tầng ký ức tập thể, khơi dậy âm vang của những mất mát chưa từng được bù đắp. Chữ, vì thế, trở thành phương tiện ký thác, nơi lưu giữ và khắc ghi những thương tích lịch sử.

Về nghệ thuật, “Văn học vết thâm” tiếp tục đẩy mạnh tính khai phá từ “Di chữ”, nhưng với cường độ và phạm vi rộng hơn. Nếu “Di chữ” thiên về thử nghiệm chữ như một hữu sinh, thì ở “Văn học vết thâm”, chữ được đặt trong những cực hạn biểu đạt, gắn với thương tích cá nhân và ký ức cộng đồng.

“một thân thể phì nhiêu chữ

mọc lên như cái cây xanh tốt mà

nỗi buồn là con sâu đo bầu trời

dằng dặc bản nháp gió”

(Bóc một lớp vỏ);

Sự chuyển dịch của chữ tạo nên một không gian nghệ thuật linh hoạt và đa tầng, nơi chữ có khả năng đối diện với mất mát, ghi lại những vết tích thời gian, đồng thời mở ra các liên tưởng vượt ra ngoài đời sống nhân sinh. Thế giới thơ hình thành từ sự vận động của chữ trở nên giàu năng lượng, gợi cảm giác bền bỉ, phơi bày những khoảng trống, những dấu vết khó phai. Chính nhờ sự di chuyển và biến đổi liên tục của chữ, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh kiến tạo một cõi riêng, nơi ký ức, cảm xúc và ý niệm hội tụ, đồng thời mở ra những năng lực khả dĩ trong cảm nhận và đối thoại.

Trong “Văn học vết thâm”, tác giả sử dụng thơ văn xuôi, cấu trúc liệt kê, dòng ý thức phi logic, tạo dựng một trường ngôn ngữ vỡ vụn, xoắn vặn, chập chờn. Chính sự phân mảnh ấy phản ánh tinh thần tác phẩm: một thực tại thiếu khuyết, rạn nứt, luôn trong tình trạng bất an. Ở đây, chữ trình hiện một cơ thể chằng chịt vết thâm, mang ký ức tập thể.

“anh trượt trên thân thể nàng một bờ dốc tuyết/ người đàn ông xa lạ/ người đàn ông thân thuộc/ sau cửa kính quán café/ khuấy đôi mắt loãng/ cuối con đường nhỏ.”

(Yoko Yoko);

“Một siêu thị nước mắt không bán có, không bán không, không bán không có, không bán có không không có, không bán không không không có có có, không bán có không không có có không”

(Khả thể)

Chữ trở thành lực đẩy để khai mở những chiều kích mới, làm nổi bật mối quan hệ phức tạp giữa cá nhân, cộng đồng và dòng chảy thời gian. Sự chuyển dịch này tạo ra một thế giới thơ luôn dao động, vừa tập trung, lan tỏa, hiện thực và tưởng tượng, đồng thời mở ra những khả năng liên tưởng đa dạng, từ những mảnh ký ức, nỗi đau, đến những trăn trở về tồn sinh và văn hóa. Thế giới thơ ấy là không gian của vận động liên tục, nơi chữ không ngừng thay đổi vị trí, chất liệu và chức năng, khiến người đọc phải theo sát những biến chuyển tinh vi, cảm nhận được những khoảng trống, những vết tích và những tiềm năng chưa được khai mở.

Trong giai đoạn này, dòng chữ trở thành phương tiện mở rộng hư huyễn, gia tăng tính ám ảnh và phức hợp của hình ảnh, cho phép người đọc tiếp cận những khoảng không tiềm ẩn, vừa thực vừa ảo diệu, nơi các cấu trúc ngôn từ và ý nghĩa liên tục biến đổi, đồng thời khơi gợi nhận thức sâu sắc về ký ức, cảm xúc và bản sắc văn hóa.

“trong thư viện người thủ thư ngủ gục

thế mà anh lại mơ

về một dãy thuyền đậu như dải khăn

quấn quanh cổ sông

em ba ngấn”

(Tình nhân/Mở cửa)

Sự hòa quyện tinh tế giữa tính trừu tượng và cụ thể, giữa cảm xúc cá nhân và liên tưởng vượt ra ngoài bản thân, khiến mỗi bước đi của chữ mở rộng biên độ tưởng tượng và khơi dậy những rung động sâu kín nơi người đọc.

"Văn học vết thâm" đánh dấu giai đoạn chín muồi trong hành trình chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh, mở rộng các mối liên hệ với cộng đồng, lịch sử và xã hội, trở thành phương tiện ghi lại ký ức, lưu giữ thương tích, đồng thời phản chiếu những dang dở, ngổn ngang của đời sống. Tập thơ là nơi chữ hiện hữu như một chứng nhân, chuyển dịch, biến đổi để kiến tạo những không gian trải nghiệm đa chiều, nơi cảm xúc, trăn trở và những dấu vết lịch sử hội tụ. Thế giới thơ trong "Văn học vết thâm" vì thế vừa phong phú vừa căng thẳng, gợi nhắc những thương tổn khó có thể chữa lành, đồng thời mở ra những khả thể nhận thức và liên tưởng mới cho người đọc. Đây là cõi nghệ thuật, nơi chữ là hiện thực sống động, luôn vận động và mời gọi người đọc tham dự, khiến mỗi trải nghiệm thơ đều trở thành cuộc đối thoại giữa quá khứ, hiện tại và những dư địa chưa định hình.

 

*

Sau hai tập thơ đã công bố, Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã đẩy “con đường chữ” đi xa hơn trong những bài thơ mới viết gần đây: chữ được giải phóng khỏi ranh giới định hình, mở rộng biên độ, trở thành không gian liên văn bản. Trong những bài thơ như "Symphony", "Trong đầm", "Bên dòng Hogsmill", "Vào mùa thu", “Trôi từ Huế đến Quảng Trị sẽ mất bao lâu?”, “Nguyên nhân mất ngủ”…, chữ vận hành theo những chuỗi ý tưởng phi lý, dòng ý thức bất định, khiến ngôn ngữ phóng khoáng, chảy trôi. Người đọc ngỡ đi vào một giấc mộng, nơi mỗi chữ, mỗi hình ảnh luôn dao động, tạo ra những khoảng trống đầy cạm bẫy, nơi hiện thực ẩn khuất trong huyền hồ, khiến trải nghiệm thơ vừa mê hoặc vừa gai gợn.

“Bàn tay nàng vẫn ở lại với anh, ngọ nguậy, trong căn phòng tối tăm này

Nó cầm ánh sáng, đốt cháy cặp mắt

Màu xanh nở, những ý nghĩ về nàng phồng lên

Màu vàng bốc cháy, một nụ hôn xám

Tiếng vó của thân xác”

(Symphony);

“Vào mùa thu, một người câm mở miệng, một người ao ước được câm hoàn toàn, những tiếng nói chỉ tồn tại bên dưới lớp da.

Mỗi cánh rừng là một âm tiết. Trong đêm tối, hãy thử chơi với những cơn bão, sau đó, dựng lại một con đường đã bị lũ cuốn vào mùa thu.”

(Vào mùa thu)

Hành trình chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh đang ở giai đoạn tràn đầy sức sống và triển nở. Chữ trở thành chất liệu kiến tạo một thế giới, nơi màu sắc, âm thanh, nhịp điệu hòa quyện với mê mị, kiến tạo chiều sâu thẩm mỹ, làm nên dấu ấn riêng biệt. Sự chuyển dịch ấy khiến thơ gần gũi và cũng xa lạ, cụ thể và trừu tượng, tạo những liên tưởng ám ảnh, nơi cảm xúc và ký ức liên tục biến đổi, xô giật, phục hồi. Trong không gian ấy, chữ là động lực sống, chất kích thích tưởng tượng, trở thành những điểm nút mở rộng biên độ ảo mộng. Thế giới thơ vì thế mở ra phong nhiêu, bất tận, nơi mỗi chữ, mỗi hình ảnh đều dẫn dắt người đọc vào những cung bậc cảm xúc sâu kín, khiến trải nghiệm thi ca trở thành một hành trình xuyên qua ánh sáng, bóng tối, tiếng động và những rung động tiềm thức.

*

Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.

Từ nền tảng hiện sinh, thơ chị từng bước triển nở thành diễn ngôn nữ quyền mạnh mẽ, nơi chữ trực tiếp gánh vác và biểu đạt thân phận người nữ: gợi cảm, nhục cảm, vừa chịu nhiều thương tích. Nhà thơ khẳng định quyền được nói, được cất tiếng bằng chính ngôn ngữ của giới mình. Chữ thành nơi hiển lộ sự khác biệt, khẳng định bản ngã. “chúng tôi nằm bên nhau, sau tấm rèm của một bài thơ/ mở tìm và sắp xếp/ ý nghĩa của cơ thể/ lắng nghe/ sự cọ xát/ nhịp điệu khô hoặc ướt, những chuyển động từ không gian khác” (Những bản dịch). Chữ ở đây vừa chuyển tải nhịp điệu, va chạm, vừa lưu giữ những rung động nội tâm, hòa quyện giữa thân thể và ngôn ngữ. Tác giả đã biến chữ thành nội lực sống, gợi cảm mà ám ảnh, mở ra hành trình trải nghiệm thơ không giới hạn, nơi mọi rung động đều được khuếch đại và nhân lên trong nhịp điệu chữ.

Một chiều kích quan trọng trong thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh là tinh thần phản tỉnh xã hội gắn liền với ký ức cộng đồng. Từ những trang thơ viết về hậu chiến, về miền Trung khắc nghiệt, về hình tượng người mẹ, cho đến những giấc mơ phi lý của hiện tại, thơ chị không khép kín trong biên độ riêng tư, mà luôn mở ra đối thoại với số phận cộng đồng. Chữ trở thành chứng nhân lịch sử, nơi ký thác và lưu giữ những “vết thâm” của thời đại. Chính từ vai trò ấy, chữ vừa cất giữ nỗi đau, vừa gợi nhắc, cảnh tỉnh, như cách nhấn mạnh rằng quá khứ không thể và không được phép rơi vào quên lãng. “Mẹ, vẫn mở to hai hố mắt, mở mãi, tìm tôi trong đêm/ Và tôi, nhảy qua hai hố sâu đó/ Để tìm đường về nhà” (Đường về nhà). Hình ảnh người mẹ biểu tượng của ký ức cộng đồng, in đậm dấu ấn đau thương, mất mát. Không gian thơ ám ảnh, liên kết quá khứ và hiện tại, biến hành trình tìm kiếm và đối diện với nỗi đau thành trải nghiệm nội tâm của nhân vật trữ tình.

Điểm độc đáo trong thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh là kiến tạo một mỹ học chữ mang tính cá nhân. Thông qua các thủ pháp như tách, ghép, kéo giãn, liệt kê…, chữ không chỉ giữ chức năng biểu đạt mà còn hiện lên như một hiện hữu cụ thể, buộc người đọc không chỉ tiếp nhận bằng tri giác ngôn ngữ mà còn chiêm ngắm, chạm tới và cảm nhận bằng nhiều giác quan. Trong các bài thơ đồ hình, thơ thị giác của "Văn học vết thâm" ("Đàn bà", "Lá", "Mộc", "Nhịp điệu"), chữ được sắp xếp theo khoảng trống, chồng lớp, tạo ra nhịp điệu và hiệu ứng thị giác mạnh mẽ, cho người đọc chiêm ngưỡng hình tướng và chuyển động của chữ. Trong bài thơ "Đàn bà", chữ như trải theo thân thể người nữ, gợi sự mềm mại và tạo cảm giác dao động; bài "Lá" rải chữ như mạng lưới hoặc vết rạn, gợi liên tưởng đến thiên nhiên và vòng đời. Hai bài thơ "Mộc" và "Nhịp điệu" mở ra không gian chồng lớp, phân tách và hội tụ, làm nổi bật tính dồn nén, bật nảy của cảm xúc. Thời gian trong thơ cũng trở nên linh hoạt: các lớp chữ chồng chập, xen kẽ quá khứ, hiện tại và tưởng tượng, khiến nhịp điệu vang động mà tĩnh tại, vừa ghi lại ký ức vừa mở ra viễn mộng. Thơ vì thế trở thành bức tranh sống động, nơi chữ kiến tạo không gian trải nghiệm trực tiếp, thị giác và xúc giác.

Thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh vận hành như một hữu sinh, gắn bó mật thiết với nhịp điệu tâm/ sinh lý, hơi thở, cử động và cảm xúc, khiến chữ vừa gợi hình thể, vừa hàm chứa sinh lực. Nhạc tính của chữ được khai thác tinh tế, để mỗi âm tiết, mỗi dòng thơ vận hành như một giai điệu, cộng hưởng giữa cảm xúc và thi ảnh, gia tăng sức ám ảnh và cảm giác huyền hồ, mộng mị. Trong cấu trúc ấy, chữ trở thành hệ sinh thái tự hành, nơi các yếu tố ngôn ngữ không ngừng phân tách và hội tụ; đồng thời, chữ luôn trong trạng thái hóa sinh, mở ra những viễn tượng trong nhận thức và trải nghiệm thẩm mỹ. Nhờ đó, thế giới thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh hiện ra như một không gian bất định/ tận, không ngừng biến đổi nhưng vẫn duy trì trật tự nội tại, nơi sự hỗn loạn và hài hòa cùng tồn tại trong thế cân bằng mong manh mà bền vững.

Ở giai đoạn gần đây, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh cho thấy khả năng liên văn bản, trở thành một trường lực phức hợp, dung hòa nhịp điệu cảm xúc, ký ức, hình ảnh và trải nghiệm.

“vì trăng sáng, vì thiếu máu lên não, vì huyết áp thấp, vì mùi khuynh diệp, vì tiếng chuông gió, vì màu xám, vì những chữ cái đang già đi trong bóng tối, vì người chết, vì người – chết – vì – người chết, vì ăn chay, vì Irene của Poe, vì Insomnia của Linda Pastan, vì một cơ thể trôi dạt, vì nước mắt, vì nốt muỗi đốt đã sưng to bằng con chim bồ câu, vì tiếng chiếp chiếp của ánh sáng, vì khuôn mặt bệnh nhân như quả cau héo, vì thuyền tròng trành, vì tiếng ngáy mở ra một đường hầm, vì một tiếng động ướt, vì xương sống của câu thơ kêu răng rắc, vì hiện thực, vì hiện thực xã hội chủ nghĩa, vì mưa tháng giêng.”

(Nguyên nhân mất ngủ)

Sự dồn nén và cách “liệt kê” liên tiếp hình ảnh tạo ra hiệu ứng ảo mộng, đưa người đọc vào một không gian vừa hỗn loạn vừa trật tự, nơi mọi giác quan bị kích thích và liên tục bị thử thách. Con đường chữ mở ra một thế giới thơ vô tận, nơi chữ mang trọng lượng vật chất và năng lượng cảm xúc, đồng thời ghi lại những vết tích cá nhân lẫn tập thể.

Đồng hành cùng Nguyễn Thị Thúy Hạnh, người đọc được dẫn dắt vào một thế giới thi ca khác biệt, đậm căn tính sáng tạo. Từ góc nhìn cá nhân, có thể kỳ vọng rằng hành trình ấy sẽ mở ra nhiều miền sáng hơn, nơi niềm vui và cảm giác an lành lan tỏa mạnh mẽ hơn. Bởi suy cho cùng, thơ cũng là một liệu pháp chữa lành: giúp con người tìm lại sự cân bằng sau những xáo động, nâng đỡ sau những đổ vỡ, nuôi dưỡng niềm tin để tiếp tục tồn tại. Trong chiều kích ấy, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh không chỉ cất lên tiếng nói riêng tư, mà còn trở thành nơi nương náu tinh thần, minh chứng rằng ngay trong bóng tối, chữ vẫn có thể tỏa sáng, gieo vào hồn người hạt mầm hồi sinh.

Nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh, sinh năm 1987 tại Thanh Hóa, từng giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, có thời gian tu nghiệp tại Bắc Kinh (Trung Quốc). Tháng 12/2019, chị bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Văn học tại Học viện Khoa học xã hội. Hiện chị là nghiên cứu viên Phòng Văn học nước ngoài, Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Ngoài sáng tác thơ, chị còn viết tiểu luận, phê bình văn học và dịch một số tác phẩm từ tiếng Anh, tiếng Trung sang tiếng Việt.

*

Con đường chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trình hiện như nguồn năng lượng vận động liên tục, dồn nén thành áp lực và có khả năng bùng nổ thành những mảnh vụn bất định. Dòng năng lượng ấy dẫn dụ người đọc vào miền sáng tạo, nơi cảm xúc, ký ức và tưởng tượng hòa quyện, từ đó mở ra những khả hữu thẩm mỹ bất ngờ cùng trải nghiệm ám ảnh khó dứt. Chính sự kiến tạo này giúp thơ chị vượt qua lối viết của các tác giả cùng thế hệ, tạo một sắc diện mới lạ cho thơ Việt đương đại, đồng thời mở ra tiềm năng chưa từng được thử nghiệm trong tổ chức ngôn ngữ và hình dung về bản chất thi ca.

Nếu nhiều tác giả trưởng thành sau Đổi mới (từ 1986) chủ yếu dừng lại ở việc giải phóng cái tôi trữ tình và làm rạn vỡ những khung khổ thi pháp truyền thống, thì Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã đi xa hơn khi kiến tạo một mỹ học riêng: biến chữ thành môi trường tồn sinh tự thân. Trong không gian ấy, ký ức, xúc cảm, vô thức và tưởng tượng giao thoa, cộng hưởng, từ đó sản sinh những hình thức thẩm mỹ mới mẻ, vừa gắn với trải nghiệm cá nhân, vừa mở rộng biên độ đối thoại của thơ với đời sống đương đại. Chính sự dịch chuyển từ giải phóng cái tôi sang kiến tạo một “cõi chữ” độc lập đã cho thấy nỗ lực cách tân mạnh mẽ và bản lĩnh nghệ thuật của Nguyễn Thị Thúy Hạnh.

Ở giai đoạn hiện tại, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh trở thành cuộc phiêu lưu của biến thể ngôn ngữ; không hướng tới một đích cố định mà luôn vận động, dịch chuyển và biến hóa. Sự dịch chuyển ấy vừa đặt ra thách thức vừa mở ra cơ hội: liệu thơ Việt đương đại có đủ sức mạnh và độ mở để đồng hành, vượt thoát giới hạn cũ và kiến tạo một giai đoạn mới trong tiến trình hiện đại hóa thi ca? Từ hành trình chữ, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh cho thấy: ngôn ngữ chỉ thật sự sống động khi không ngừng biến hóa, và nhờ đó, thơ ca mới có thể hiện hữu như một thực thể bền lâu.

Hải Phòng, 8–9/2025

M.V.P

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm