TIN TỨC

“Theo chồng về quê” của Mai Khoa – một bài thơ hay

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-02-21 16:12:35
mail facebook google pos stwis
1347 lượt xem

ĐINH THIÊN HƯƠNG

Bởi yêu chồng từ lúc mới bén duyên
Như tình biển yêu thuyền thương nhớ
Nghĩa vợ chồng chẳng bao giờ hết nợ
Sợi tơ hồng em xe chỉ luồn kim

Điều ước ao em mải miết kiếm tìm
Một miền quê nơi “đất lành chim đậu”
Có câu ví dặm ân tình sâu đậm
Có vườn trầu ngan ngát hương cau…

Đất miền Trung tuy sỏi đá bạc màu
Người xứ Nghệ luôn giàu lòng nhân ái
Nét dịu dàng như cỏ cây hoa trái
Dòng Lam giang vời vợi trong xanh

Bỏ phố thị về miền đất quê anh
Đêm ngắm trăng thanh soi mình trên cát
Chiếc thuyền nan chòng chành nghe biển hát
Làn gió nam man mát phía chân trời

Thời gian ơi! Lời yêu thương vời vợi
Nơi làng quê ấm áp khói lam chiều
Chùa An Thái ngân tiếng chuông chầm chậm
Núi Phượng Hoàng sừng sững chắn bão giông

Cuộc sống buồn vui san sẻ cùng chồng
Có mệt mỏi không giận hờn oán trách
Tìm hạnh phúc ở trong từng trang sách
Trong bát chè xanh sóng sánh vị quê mình!

Nghệ An, 15.5.2024
Mai Khoa

Mai Khoa là hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh. Mảnh đất phương Nam là nơi vợ chồng chị và con cháu chọn làm nơi định cư đã mấy chục năm. Chị vốn là gái gốc nội thành Hà Nội. Tuổi thanh xuân, từng là vận động viên bóng bàn trong quân đội. Rồi theo tiếng gọi tình yêu, Mai Khoa kết duyên với chàng trai biển Quỳnh xứ Nghệ. Quê chồng có nhà cửa, vườn tược, có tông tộc và tình làng nghĩa xóm – nơi bao năm qua, từ thuở xanh mái đầu đến nay đà bạc tóc, ở vào cái tuổi “cổ lai hy”, Mai Khoa vẫn luôn có những chuyến “theo chồng về quê”.

Vì thương nhau mà bén duyên chồng vợ. Chị yêu anh như “tình biển yêu thuyền”, bất chấp xa cách, chẳng nệ giàu nghèo, không âu lo kẻ miền quê “gió Lào cát trắng” - người kinh kỳ, thanh lịch Tràng An. Thời ấy, quyết định này phải nói là dũng cảm! Vì thế, ngay trong khổ thơ mở đầu, Mai Khoa có hai câu thơ tự nhiên mà hồn hậu, khăng khít, vấn vít nghĩa tình, duyên nợ keo sơn, với một hình ảnh thơ đậm chất dân ca, giàu gợi cảm và đầy tinh thần chủ động: “Nghĩa vợ chồng chẳng bao giờ hết nợ / Sợi tơ hồng em xe chỉ luồn kim”. Tình yêu vô bờ bến và trong trẻo ấy khiến Mai Khoa cả đời như chưa dứt nợ. Và điều đó cũng chứng tỏ, chàng trai xứ Nghệ của chị có sức hấp dẫn đến mức nào…

Anh ấy thật hạnh phúc vì trong đời có người vợ – người yêu anh và yêu tất cả những gì dung dị, nghèo khó, gian khổ của quê anh, từ thuở hàn vi đến bây giờ đủ đầy của ăn của để. Không biết chuẩn mực của cái thời “Một mái nhà tranh, hai trái tim vàng” có chi phối tình nồng của họ không. Nhưng đọc cả bài thơ, như được dõi theo suốt hành trình cuộc đời, ta luôn thấy Mai Khoa thi vị hóa những giá trị vật chất và tinh thần ở nơi quê chồng. Tuyệt đối không thở than, “không giận hờn oán trách”. Nhờ thế, chị đã tạo nên trùng điệp những hình ảnh thơ dung dị mà ăm ắp yêu thương, ngập tràn cảm xúc: “Câu ví dặm ân tình sâu đậm / Có vườn trầu ngan ngát hương cau / Đất miền Trung sỏi đá bạc màu / Người xứ Nghệ luôn giàu lòng nhân ái… Dịu dàng như cỏ cây hoa trái… Lam giang vời vợi trong xanh… Trăng thanh soi mình trên cát… Thuyền nan chòng chành nghe biển hát… Gió nam man mát phía chân trời… Làng quê ấm áp khói lam chiều / Chùa An Thái ngân tiếng chuông… Núi Phượng Hoàng sừng sững chắn bão giông…”. Thật là nặng lòng, không chê quê xa - quê nghèo khó. Yêu thế mới là yêu!

Cho tới hôm nay, vợ chồng Mai Khoa đã dắt tay nhau đi đến chặng cuối của đường đời, chị mới thổ lộ ý nguyện từ thuở thanh tân, làm kim chỉ nam, làm nguyên tắc sống: “Điều ước ao em mải miết kiếm tìm / Một miền quê nơi đất lành chim đậu”. Và tất nhiên, như chúng ta ai cũng biết, suốt một đời chăn gối, chẳng phải bao giờ cũng “cơm lành, canh ngọt” cả đâu. Nhưng nếu biết giữ nguyên tắc sống như thế, biết tôn thờ duyên kiếp, chấp nhận nhau, thì:

“Cuộc sống buồn vui san sẻ cùng chồng / Có mệt mỏi không giận hờn oán trách / Tìm hạnh phúc ở trong từng trang sách / Trong bát chè xanh sóng sánh vị quê mình!”

Hai tiếng “quê mình” ở cuối bài khác hẳn với “miền đất quê anh” ở phần mở bài. Nó là cả một quá trình “tự diễn biến – tự chuyển hóa”. Bây giờ nghe sao mà lịm ngọt yêu thương! Keo sơn và nồng nàn, gắn kết…

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm