TIN TỨC

Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-09-26 11:53:18
mail facebook google pos stwis
103 lượt xem

"Khúc nhen chiều" của Vũ Xuân Hương hiện lên như một bức bích họa nhiều tầng, nơi “khói” vừa gợi nhớ cội nguồn, vừa hóa thân thành biểu tượng cho những quặn thắt, day dứt và cả niềm tin của phận người. Trong bài viết này, Tuấn Trần phân tích hồn thơ dữ dội mà trữ tình ấy, đồng thời cho thấy sự hòa quyện giữa chất sử thi – dân gian với âm hưởng hiện đại, mở ra một biên độ tồn tại rộng rãi cho thi ca.

TUẤN TRẦN

Thoạt nhìn cứ ngỡ hồn thơ Vũ Xuân Hương mang màu sắc chủ đạo là hồn hậu, mênh mang, hướng về nguồn cội với những quý giữ, nâng niu. Thế nhưng, hóa ra trong làn khói ám mộng ban chiều đó, lại không chỉ “Bình dị màu yêu thương” mà còn bốc bay họa hình theo những biểu đồ, những đường “lập thể”, những mịt mù chao đảo, những cơn quặn thắt trong “dòng tiến hóa” – “Khói” họa “thiên cơ”.

Cái ảo mờ, rong ruổi, cái biến tấu kì biệt, tự do “tung tác” để khám phá, kiếm tìm, truy/ trưng thu cái đẹp đông, tây, kim, cổ sao cho thỏa nguyện cơn lửa đói lòng trong chiều quan tái… Hồn thơ Vũ Xuân Hương được kiến tạo từ mô thức dung trộn nhiều thành tố: Chất cổ điển sử thi/ anh hùng ca, ảnh và lời đậm tư thái dân gian của miền Bazan. Thanh âm trong thơ có tiếng suối trong, có lòng gan dạ T- nú, có thác gầm rú và những tiếng gật gù cu núi, “Bồ Chao”… Các thanh trắc, điệp vần và lối nói khúc thắt, ngắt ngang như thác đổ, dựng đứng vách cao, khi trào tuôn, khi thầm lặng,  thấm lắng… Tất cả đều mang mắc sự bi cảm/ tráng, hòa âm bài ca sự sống thiêng liêng. Để làm mới tinh thần trang trọng cổ điển đó, nhà thơ đã đệm đàn những “khúc piano songs of Richard Clayderman” – giặm thêu “nền nả” bao lật trở, ngậm ngùi cho đời sống đương đại nhiều điều nhân họa, thiên tai.

Hoặc, ở một liên tưởng khác, khói nhen lên từ bếp nồng lửa đỏ, từ “bờ đê lối cỏ”, từ “một chiều bến quê” nhưng đồ hình đường bay của nó thì “vượt ngưỡng”: Khi đậu bóng Kơ - nia, đi rừng Tây Bắc, khi Sa Huỳnh, Ban Mê, khi Núi Ngự, sông Hương, tìm người bến lạ… Khi “sực tỉnh” suy niệm “bể khổ bến mê” - đạo trời lời đất.

“Khói” mềm mang tâm thức luân lưu, biến thiên vô định với nhiều sự hóa thân hóa kiếp. Có phải, hồn thơ lựa chọn ảnh tượng “Khói” để biểu đạt dạng thức tồn tại của chính mình giữa thế lộ đảo điên. “Khói” từ sau lũy tre, gốc đa, mái rạ, lang thang địa cửu thiên trường trong tâm tư độc hành, lẻ loi, soi bóng mình vào từng ngõ ngách khám phá, kiếm tìm - vẫn trống trải, trơ vơ đi hoang – loang dài từ hoàng hôn đến ăn bắt vào dòng nước mắt đêm…


Tác giả Tuấn Trần và Thạc sĩ, nhà thơ Vũ Xuân Hương

“Khói” đảo chao với muôn hình vạn dạng, âm vang lên những tiếng không chỉ bình yên, ảm đạm mà như “ngàn hống”, như siêu thiêng, như từ thung sâu cùng non, những miền hoang dại/ hoải dội về trong tâm tưởng: “Anh lững thửng bước về lối cổ/ thưở chưa nhau chưa có Tà Đùng…/ bất chợt nắng/ bất chợt sương/ bất chợt làn hương níu chân người lại/ một làn em thanh sắc hiện ra/ phải bóng cây Kơ - nia sương chiều vạt núi? (cây bằng lăng thân trắng đợi người).

Khác với các “họa sĩ” khác, ví như Thanh Hoàng “Vẽ nhớ” – phong cách pha màu rất đầy hương, nét cọ êm thấm, đậm đà, đôn hậu… Còn Vũ Xuân Hương, cũng từ phẩm tính trung hòa của sắc trắng nắng chiều, mà anh đã phác thảo trạng thái tinh thần mãnh liệt và có thể là “cuồng tín”, “cưỡng bách” mình “sắn tay sới vật linh hồn”...

Anh dùng nhiều gam màu nóng chói, những mảng đen đúa gai góc. Trong màn “khói” “sử thi” quánh đặc “Từng chén mủ rót vô thùng”, trong “mây sương bạc xóa nỗi niềm”. Anh như múa giáo vung gươm những đường hận- cơn oán giận không nguôi vì “nay buốt giằng rào gai/ tấy nhọt phi trường quân sự/ Long Bình nhức ứa đạn bom”: Nào “Súc sanh khổ kiếp tanh hôi/ Đớp mồi loài nọ, làm mồi giống kia/ Cõi người vay trả đầm đìa/ Thiên tai, cốt nhục, chia lìa, chiến tranh”.

“Dẫu băm nhỏ con đỉa vẫn không trát khít hình rịt vết thương” (Quote: Nhã Thuyên) - Vũ Xuân Hương mang trong mình hình hài vết đau tái mủ như cây Xà Nu, đồi Cao Su quê anh. Đó cũng là vết đau chung của của dân tộc, của thân phận, của kiếp sống nồng màu “xám vàng – loang lỗ/ quặn lòng em phía lặn mặt trời”. “Những chu kì tiến hóa tự thân”, sự vận động lồng lên như “luồng xoắn ốc”. Anh thấy hành trình phát triển thật đáng sợ như “đêm hí trường La Mã cổ”… những “mắt người khoái trá” trong cuộc thái xẻ, giết chóc.

Rõ ràng trong tổng thể bức bích họa, thì nét vẽ đăm chiêu nhiều hơn vầng thiều quang hi vọng - đeo ách trong tâm tưởng một nỗi bồn chồn khôn tả xiết như “dòng sông chảy cồn cào qua lịch sử”, “đêm sập đầy đôi mắt của nhà thơ”…

Vũ Xuân Hương, trước hết đã nặng lòng với thế thái nhân tình, sau những cáng đáng vị nhân không thành, bởi “lòng ta rộng nhưng lượng đời cứ chật” (Quote: Xuân Diệu) - Anh mới “oằn oại” “lết cô đơn qua kiếp phận nhọc nhằn” và tìm cho mình một chốn nương trú, tựa vào đôi ba hạt nắng chiều “xiên xiên” ghi “NHẬT KÍ” với những nét “tầm thường” đơn nhất có thể. Trong 101 trang thơ, giữa tập (tr52, 53) là một “khoảng trắng/ lặng” được cọ màu rảy thô lên mà chẳng chăm chút, điểm trang. Nhưng có phải, khi người đọc trải nghiệm chán chường vẻ đẹp đậm đà, lưu cữu, người ta lại khát khao tìm về sự thuần lành, giản dị - Cái thuần lành, giản dị ở đây cũng là dụng ý của tác giả để nói về “tình yêu”. Tình yêu thì đâu cầu kì thi vị. Nó tự bật âm chân thành, thô mộc và đơn điệu…, đó mới là bản chất chân chính mà con người luôn nỗ lực kiếm tìm nơi người mình thương yêu.

Tựu trung, trong “Khúc nhen chiều” là cuộc “truy vấn” không ngừng của nhà thơ với chính mình và với đời sống. Cuộc “truy vấn” trong những chuỗi dài bất an, cô độc, trơ trụi. Nhưng đó cũng là cuộc vận động tự thân để cá nhân thêm mãnh liệt, hiên ngang, rồi tìm lối trở về bình yên nội tại. Tiếng nói tinh thần trong thi ca là tiếng lòng da diết, tiếng cồng chiêng róng riết đánh động thông sâu những man trá khuất lấp đang ăn mòn lương tri. Cấu hình thẩm mỹ đa thanh, đa nghệ trong “Khúc nhen chiều” đã cho thấy sự am hiểu hay tinh thần năng chuyên tích lũy kiến thức cũng như sự đọc cần mẫn, tinh tường của tác giả: âm nhạc, hội họa, triết học, tôn giáo và cả công nghệ đều được vận dụng khéo léo, sáng lạ để thơ nở ra biên độ tồn tại và liên tưởng rộng rãi hơn…

‘Phận ủy phi cô bồng” – như mây lẻ vượt đèo/ một “con chim rừng gãy cánh giữa đường bay”… hẳn thi nhân đã giăng trải đời mình kinh qua những cú đùa ác của gió bụi phong nhiêu, để rồi chọn tín ngưỡng/ niềm tin vào sự vĩnh cửu của thi ca - bức họa. Từ tiếng vỡ khóc tận hang mạch đáy lòng cho trăm năm/ một đời trăn trở sống làm sao cho đẹp lành giữa biến cố khổ đau - hẳn nhiên, đó là một niềm kính tín tin yêu đầy can đảm. Là một cây rừng đứng sững lưng trời chiêm ngắm “trời mưa nắng - lẽ vô thường…” vậy thôi! Tôi đã thấy một Vũ Xuân Hương lặng lẽ, an tĩnh trong thơ.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm