TIN TỨC

Xuân Trường ly này tôi cạn trời xanh…

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-12-12 14:59:13
mail facebook google pos stwis
1226 lượt xem

NGUYỄN THANH MỪNG

Hồi Xuân Trường còn trên “phố núi cao phố núi mờ sương”, anh hay gửi tác phẩm cho Văn nghệ Bình Định và thỉnh thoảng ghé Quy Nhơn, đặc biệt là trong các dịp Nguyên Tiêu. Tôi lặng lẽ cảm mến một nhà thơ ít nói, nụ cười hiền ẩn chứa những trầm tích của thời gian, lúc như vô vi lúc thì kiêu bạc. Sự chân tình với bè bạn và với một tình yêu thơ ca vô bờ bến trong anh đã kết nối bước chân lãng du với những miền đất, những tâm hồn, không to tiếng cao giọng, chỉ rủ rỉ rù rì, mây trôi gió thoảng, nhưng khi kết nối lại thì không ít thấm thía, vang vọng.

Trong vật đổi sao dời, tình cảm bạn bè cũng như niềm say mê của nhà thơ ngày nào vẫn còn nguyên vẹn. Giữa cái mạch tiếp nối của truyền thống “Chùm thương nhớ” (1999), Tím xưa (2000), “Không gian em” (2005), “Nắng trầm tư” (2008), một hôm tôi gặp một Xuân Trường thi sĩ quen thuộc trong mới lạ, mới lạ trong quen thuộc. Cảm giác đó ùa về khi chàng thi sĩ đến định cư ở Sài Gòn, để lại sau lưng các thành phố miền Trung và cao nguyên với tuổi trẻ dãi dầu, xa cách nhiều năm, bỗng một hôm gửi tặng tôi tập thơ “Chiếc cằm nũng đôi” mới in chưa ráo mực.

Tôi chú ý đến một giọng điệu khói sương trong thơ Xuân Trường, nửa ở thực tại nửa ở hư ảo: “Con sông xưa vẫn lặng thầm- Đôi bờ hưng phế dịu đằm vào nhau”; “Dang tay vớt nửa câu thề- Bẻ đôi từ lúc ngõ về không em”; “Phố nghiêng mắt ướt hoa đèn- Lang thang ta nhặt hờn ghen một thời”; “Tiếng đàn tài tử chia hai- Nửa cầm chân khách nửa cài ngực tôi”… Thơ cũng như ca dao Việt Nam, có nhiều bài ẩn giấu một cốt truyện bên trong, ví như: “Nàng nói với ta nàng hãy còn son- Ta đi qua ngõ thấy con mình bò- Con mình những trấu cùng tro- Ta đi gánh nước tắm cho con mình”. Xuân Trường trong lục bát dài “Chiếc cằm nũng đôi” đã viết một thiên tình sử, pha chút bi hài trong giọng điệu trữ tình dùng dằng, khi có, khi không, khi mất, khi còn: “Thoáng gì trong mắt xa xăm- Câu thơ bối rối chiếc cằm nũng đôi”. Ở gương mặt mỹ nhân, đôi mắt lá răm, chiếc răng khểnh, lúm đồng tiền cũng thành “vực thẳm ái tình”, nó chôn giấu bao nhiêu bí ẩn mà thi sĩ của muôn đời đắm đuối, và con thuyền tình Xuân Trường đã rơi đúng “chiếc cằm nũng đôi”!

Cái gốc “đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm” của anh, trong bóng dáng người cha đã khuất: “Lưỡi cày rốc đất ruộng trưa- Dấu chân sót lại đồng xưa ướt nhòa”, có người mẹ hiền hy sinh tần tảo: “Với lời trăng bến gió sông- Bảy lăm năm ấy cô phòng một tiên”; có cả mối tình hoa niên: “Cắn tay em bảo xưa rồi- Thôi đừng nhắc nữa kẻo đời nôn na”… Xuân Trường đã gói theo hành trang xa xứ, nén chặt trong trái tim để mỗi lúc mềm lòng thì ngồi tư lự với những vần thơ sông dài biển rộng. Anh đi nhiều, hít thở thật sâu hương vị sẻ chia của cõi người nhất là những lúc giông tố của đời, với sự hồn nhiên của một lòng thơ chân chất và cả sự lịch lãm của con người hào hoa. Ký ức lịch sử văn hóa, đôi lúc đã đọng lại trong hơi thở ấy: “Ngàn năm mấy nỗi Đồ Bàn- Dấu chân huyền sử hoang tàn phế đô- Gió ngồi chẻ nắng hư vô- Cõi người cõi tháp lắng mờ trong nhau”. Trong cái cõi tháp ấy, một cơn say, anh đã gặp bóng dáng Huyền Trân: “Từ cõi ngàn thu ta trở lại- Dặn dò con cháu chút vậy thôi- Lòng vẫn cong theo hình Tổ quốc- Vòng tay hải đảo mấy nghìn đời”.

Trở lại Đà Nẵng, Pleiku, hay vào Nam Bộ, ra Bắc Hà, Xuân Trường vẫn giữ nguyên phong thái đa cảm đa mang cố hữu. Về Quy Nhơn đất cũ, anh tung mây bạt gió với bạn bè trong cốc rượu Bàu Đá, trên ngọn cỏ phiêu bồng xa xưa, cái ngọn cỏ mà nhà thơ lẫy lừng Hàn Mặc Tử đã: “Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng- Những sợi hào quang vạn thước vàng”. Một Quy Nhơn đa mang của Xuân Trường: “Em ngày xưa một câu gì- Cho tôi dại đến xuân thì đảo điên”. Một Đà Nẵng đa mang của Xuân Trường: “Đà Thành giờ thênh thang ghê- Chỉ riêng mưa bão không hề đổi thay”. Một Huế đa mang của Xuân Trường: “Tay em thưa nhặt sênh tiền- Áo khuya cợt gió lật viền bão giông”. Một Vĩnh Long đa mang của Xuân Trường: “Câu thơ gãy nửa nhịp rồi- Mà còn nghe gió cứ ngồi đếm hương”. Một Hà Nội: “Chiều mồ côi con gái phía Tây Hồ…”. Và một Thái Nguyên, một Đà Lạt, một Nha Trang, một Phan Thiết, một một Tây An, Kông chro…ở đâu Xuân Trường cũng giãi lòng ra trăng với nước với đất, với người, với thực tại và với mộng mơ, rót trong chén rượu lang bạt kỳ hồ, rót xuống môi người những nợ duyên không kỳ hạn. Và anh tự đúc kết: “Ngoài đời lang bạt gió mưa- Hôn nhân mỏng mảnh ta thừa ngoài em”. Ở góc độ này, nói rằng Xuân Trường giống như một tín đồ của quan niệm thơ ca Hàn Mặc Tử- nhà thơ mà Xuân Trường hết sức trọng vọng, kính tín, thường lên đồi Thi Nhân thắp hương- quả cũng không ngoa: “Trừ hai loài trọng vọng là “thiên thần” và “loài người”, Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: “loài thi sĩ”! Loài này là những bông hoa rất quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: Phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch”.

Trong số kiếp của “loài thi sĩ”, xế chiều nhìn lại, Xuân Trường thao thiết: “Hết rồi chen lấn người ta- Bao nhiêu nước chảy đã qua kiếp người”; “Bánh xe quay tít thơ sầu- Tiếng con bìm bịp bắt đầu gom sương”…  Những ký tự đắm đuối của người phiêu lãng, nông sâu gửi theo non nước, cùng gió thổi mây bay, như những sợi vô thường. Tôi chưa nói hết những gì cần nói, chỉ cơ hồ chạm khẽ vào sợi tơ ấy, ngân rung cùng những nỗi niềm thơ Xuân Trường ấp ủ và tự bạch. Ở đó, tôi gặp lại một người quen biết cũ trong bóng dáng hư ảo và đượm đà: “Ly này tôi cạn trời xanh- Sóng xưa vỗ phía biên thành ngàn năm- Đắm hồn đáy nước xa xăm- Nắng nghiêng cổ tích lá răm mắt chiều”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm