TIN TỨC

Mai Quỳnh Nam không đi trên những lối mòn – Tiểu luận của Pawel Kubiak

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-10 17:19:44
mail facebook google pos stwis
592 lượt xem

Nguyệt san Gazeta Kulturalna (Báo Văn hóa) của Ba Lan số ra tháng 2 năm 2021 đăng bài viết của tác giả Pawel Kubiak về tập thơ Phía bên kia sự im lặng* của Mai Quỳnh Nam. Bài này từng đăng trên trang Lý luận phê bình của Hội Nhà văn Ba Lan giữa tháng 2 năm 2020. Chỉ hai tuần sau đó, tác giả bài viết đã đột ngột ra đi.

 

Ở Ba Lan, Pawel Kubiak được biết đến với tư cách nhà thơ, nhà hoạt động văn học nghệ thuật, dịch giả văn học Việt Nam ra tiếng Ba Lan. Ông đã cùng nhà thơ Lâm Quang Mỹ dịch thơ cổ điển Việt Nam, thơ của các tác giả thuộc phong trào Thơ Mới, dịch thơ Lâm Quang Mỹ, in và phát hành rộng rãi tại Ba Lan. Ông cũng là một trong số không nhiều các dịch giả Ba Lan được mời sang Việt Nam dự Hội nghị Quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài.

Pawel Kubiak ra đi là tổn thất lớn không chỉ với công chúng văn học Ba Lan mà còn với công chúng văn học Việt Nam. Ông yêu mến Việt Nam và đã dành tình cảm đặc biệt cho nền văn học mà ông đánh giá cao và vô cùng ngưỡng mộ.

Vanvn xin trân trọng giới thiệu lại trọn vẹn bài viết của nhà thơ Pawel Kubiak về thơ Mai Quỳnh Nam do dịch giả Nguyễn Chí Thuật chuyển ngữ.

 

Thơ Việt Nam ở Ba Lan vẫn là một cái gì đó xa lạ. Mà rõ ràng đất nước châu Á này luôn là mảnh đất tốt cho thơ ca phát triển, nơi nhà thơ được tôn vinh, ngưỡng mộ. Bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước được công bố dưới dạng một bài thơ. Văn Miếu ở Hà Nội tồn tại suốt 10 thế kỷ nay là minh chứng hùng hồn cho lời khẳng định này.

Suốt nhiều năm hợp tác dịch thơ cổ điển Việt Nam, nền thơ có truyền thống tính bằng thiên niên kỷ, tôi có vinh dự hai lần được Hội Nhà văn Việt Nam mời sang Việt Nam dự các hoạt động liên quan đến văn học. Cụ thể tôi tham dự các Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài với danh nghĩa người dịch văn học Việt Nam ra tiếng Ba Lan, cùng với hàng trăm dịch giả nước ngoài khác. Quy mô của các hoạt động này thật sự nằm ngoài sức tưởng tượng của những người Ba Lan chúng ta: đoàn xe ca 10 chiếc nối đuôi nhau chở các dịch giả đi thăm danh lam thắng cảnh ở thủ đô, tham quan vịnh Hạ Long, đi dọc sông Hồng và đến nhiều địa danh nổi tiếng khác, có xe cảnh sát tháp tùng. Ở cuối mỗi câu miêu tả trên đây của tôi, lẽ ra dấu chấm than phải được sử dụng!

Khi tập thơ Phía bên kia sự im lặng của Mai Quỳnh Nam được xuất bản, tác giả bản dịch, với sự cộng tác của nhà thơ Ba Lan, Kalina Izabela Ziola, đã gửi tặng nó cho tôi và việc làm này khiến tôi vui mừng khôn tả. Lý do: đây là thơ hiện đại Việt Nam, loại thơ “sống” thuộc giai đoạn thơ mà tôi biết ít nhất. Cuốn sách có dung lượng khá lớn, in đẹp, minh họa mang không khí và tâm hồn châu Á. Còn nội dung thì vô cùng phong phú.

Trước hết tập thơ là kho báu chứa đựng kết quả quan sát các sự kiện và các quá trình đời sống: quá trình liên quan đến thiên nhiên, quá trình mang tính xã hội học và văn minh hóa. Rõ ràng sự nhậy cảm về thân phận con người đã được làm nổi bật. Mai Quỳnh Nam thường xuyên xã hội hóa các vấn đề mà thơ ông đề cập, ông chỉ ra những con đường nhỏ mờ ảo của hệ thống xã hội trong nền văn minh của chúng ta; chúng ta không biết suy ngẫm cụ thể của nhà thơ liên quan đến quốc gia nào, bởi vì thi sĩ chu du nhiều nơi trên thế giới, song tôi nghĩ điều đó không phải là vấn đề quan trọng nhất:



Nhà thơ Mai Quỳnh Nam

 

Xã hội học lúc 0 giờ 

 

Mưa pháo hoa xối xả lên trời

Uốn những vòng ngũ sắc

 

Giờ này những chú bé đánh giày ngủ rất ngon,

rất say. Những cô gái bán mình vừa dứt cuộc tình,

bóng hình mờ mờ ảo ảo. Những ông chủ

vừa tan tiệc rượu, thương trường điên đảo,

giá vàng vừa tỉnh vừa say

giờ này, bầu trời tinh tươm không gợn mây

không suy thoái,

không phát triển,

không minh chứng một điều gì hết

dịu dàng trên tán cây

che giấc ngủ ngon

những chú bé đánh giày

Một vấn đề riêng rẽ khác là sự cô đơn “có chủ định” được đề cập trong bài Người đàn bà hiện đại: “Độc thân/ sống cùng cún con/ hai tivi/ hai điện thoại (…)/ đêm buồn/ dắt cún dạo chơi”.

Hiện tượng không mấy hay ho khác có thể là mặt trái của đô thị hóa diễn ra chóng mặt và việc công nghệ hiện đại thống trị đời sống xã hội:
 

Hiện đại 

 

Ăn cơm hộp, ở nhà hình hộp

Sống độc thân ngày cơm hộp hai lần

Phố chói nắng, không cây đổ bóng

Những quan tài dựng ngược bủa vây anh

(…)

Ở một số bài thơ trong phần Một tập thơ này, chúng ta bắt gặp sự súc tích đến bất thường, những tối giản đáng ngạc nhiên nhưng lại không hề làm nghèo nàn nội dung các tác phẩm! Chỉ trong một hai dòng thơ thôi mà cả vũ trụ thi ca hiện diện. Có cảm giác từ chỗ dòng thơ kết thúc không thể có con đường đi tiếp: một bước tiến thêm lên phía trước sẽ phá vỡ mối liên hệ với nền tảng liên tưởng, một bước lùi lại phía sau sẽ làm loãng ra cảm xúc. Cho nên sự gắn kết giữa các từ ngữ phải vô cùng khéo léo: * * */ Một túp lều/ một vầng trăng/ hai tiếng thở dài/ vài giọt sương/ thế là thiên đường.

Hay: * * */ Không đến nỗi tồi tệ/ thì em còn có anh/ anh còn có trời xanh/ trời xanh còn mây trắng/ tính trọn gói một ngày/ thế là ta thắng đậm.

Tôi muốn dành thêm mấy câu để nói về sự đặc sắc của bài thơ sau đây. Vầng trăng, những đám mây trôi trên bầu trời, đối với người Việt là cả một thế giới huyền ảo, chứ không chỉ là biểu trưng, mà là một hiện thực ngoài vật chất! Đó là một thế giới người ta bắt gặp, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như một bản di chúc để lại cho tương lai:  ***/ Đám mây màu hồng nhạt/ đang chuyển dần thành xanh/ con ơi, vầng mây trắng/ nhiều khi trôi một mình.

Về các mối quan hệ xã hội và những tập quán tồn tại ở Việt Nam (và chắc chắn ở một phần các quốc gia châu Á nữa), bài thơ trích dẫn dưới đây nói lên nhiều điều:
 

Sự tồn tại

 

Ông giáo sư tồn tại vì cái đầu uyên bác

cô thư ký tồn tại vì xinh và đôi khi giả bộ hơi đần

tôi tồn tại vì gì không biết

đã mấy lần nước ngập đến chân

Bài thơ Quan hệ giới, mở đầu bằng câu “Sạp trái cây của người đàn bà/ quả gì cũng có”. Có thể thấy phần lớn các bài thơ đều được viết từ góc nhìn điển hình của người đàn ông khi ca ngợi vẻ đẹp phụ nữ, đề cao sự tinh tế thiên phú của phái đẹp. Tác giả cũng bày tỏ sự mong đợi thường tình của đàn ông: sống lâu dài bên cạnh người phụ nữ mình yêu, được hưởng sự chăm sóc, ân ái, ví dụ: “Tình yêu phong em thành thánh thành thần, thành đức tin, anh ngưỡng vọng”. “Em trói buộc tôi bằng quyền lực mềm/bằng nhan sắc”, “Đôi ta lỡ bước sa chân/ mấy lần trượt ngã/ thôi thì dựa vào nhau mà đi/ đường xa/ nào ân hận gì”. “Ấm êm bên em trôi qua rất nhanh/ tất cả tan tành/ bệnh tình ấp tới”.

Ở một trong số những bài thơ mà theo tôi là quan trọng nhất của tập thơ, chúng ta bắt gặp sự so sánh không chút mâu thuẫn giữa triết học châu Âu của Hegel với thuyết đầu thai kiếp sau của châu Á theo Ấn Độ giáo, Hin-đu giáo. Trong tương lai được đề cập, không có cái gì chiến thắng cái gì mà cả hai thế giới đều song song tồn tại:
 

Phép thử thuật tư biện

 

Theo phương pháp của Hê-ghen

tôi đặt niềm tin

vào ý niệm tuyệt đối

tôi kêu gọi

những hạt sương kết đọng trong đêm

sáng ra, tôi nhìn

trên lá sen

long lanh hạt ngọc

 

tôi cũng đặt niềm tin

vào ý niệm tuyệt đối

để hình dung về em

mong có em trong tồn tại khác

em đẹp, nồng nàn …

 

sau giấc mơ miên man

tôi gặp con cánh cam

xòe đôi cánh óng vàng

bay lên

từ cây mận

Tính tư tưởng chiếm vị trí đáng chú ý trong tập thơ Phía bên kia sự im lặng. Nhà thơ đứng ở phía nào, đứng về phía ai để phát ngôn? Thi sĩ là nhà nghiên cứu xã hội học làm việc ở Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Ông bày tỏ những quan điểm phong phú, đa dạng, đôi khi đối lập nhau, đưa ra những phát hiện khác nhau về vấn đề cuộc sống, cái chết, tâm hồn (tâm hồn đối với người Việt là ý thức về giá trị bản thân, hơi khác so với toàn bộ đời sống, sự tồn tại của con người Thiên chúa giáo). Trong bài thơ viết tặng vợ, ông nói rõ: “sau khi chết, chúng ta bị quẳng mỗi đứa một nơi”…, và xa hơn một chút “trời ghen tức chơi trò phá đám”. Ông tỏ ra nghi ngờ: “Chúng ta chia tay nhau ở phía cuối con đường, sực mùi tử khí/ kiếp người là gì ấy nhỉ?”. Ông cũng cho phép: “Lòng tan rã như có ma đến ám”. Trong thơ ông có chỗ cho một quan niệm mang tính hoàn vũ:
 

Cầu nguyện

 

Xin tha thứ mọi tội lỗi

xin hãy minh oan

xin nhìn thấu vào nguyên nhân cái chết

 

xin để linh hồn anh được siêu thoát

So sánh với tầm nhìn Thiên chúa giáo, có thể thấy sự khác biệt: “giản dị thôi, tôi chuyển vùng đời/ về miền tất định”. Sau sự ra đi của người vợ thân yêu, nhà thơ viết bài thơ chứa đựng bi kịch cá nhân nhưng cũng đầy chất trí tuệ:
 

Mộ đôi

 

Hai tấm thân tan rã

Truyền hơi ấm cho nhau

Dưới đất lạnh

Từ lâu

Họ chỉ còn im lặng

Còn đây là bài thơ chứa đựng thế giới quan thuần túy:

Tất cả tin vào cái không có

thế là cãi cọ

thế là chiến tranh

đằng đẵng hàng nghìn năm

không phân thắng bại

tội này

thuộc về các giáo phái!

Và kết thúc chủ đề này:

* * *

Tôn giáo cần được dung hòa

Lẽ nào Thánh kinh không phôi pha?

Có một số bài thơ đề cập trực tiếp đến văn học thế giới, đến lĩnh vực khoa học, cả Việt Nam và quốc tế. Một trong số đó là bài tác giả phân tích tác phẩm thơ Wislawa Szymborska, chứng minh rằng, thống kê là biểu tượng mang tính nghệ thuật” ở nữ thi sĩ Ba Lan được trao Nobel Văn học. Trong loạt tác phẩm này, bài thơ gây ấn tượng mạnh trong tôi là tác phẩm viết về số phận bi kịch của nhà văn khác, cũng được trao Nobel văn học:

 

Tự sát, trường hợp Hemingway

 

Tự sát

có cơ chế di truyền

căn nguyên từ máu

 

viên đạn súng sưn sư tử

chính ông phát nổ

 

chết

ai cũng vậy thôi

bi kịch đời người

cần giải thoát

Trong bài thơ viết dưới nhan đề Thơ mang ít nhiều yếu tố lý luận thể loại, tác giả đề cập quá trình sáng tạo và tính chất dự báo của tác phẩm: “tôi đọc/bằng sự im lặng/ hết ngày này sang ngày khác/thơ trong đầu tôi/ có thể đã viết xong/ có thể là bản nháp/ có thể mấy câu rời rạc/ của tôi/ hoặc của người khác (…)/ nếu không có thơ thì tôi chết/ có, thì quá mệt/ tôi đã giải thoát”.

Trong một bài thơ khác, tác giả tâm sự: “tất cả không chú ý đến tôi/ con người có thói quen/ yên lặng/ nhìn bầu trời”.

Quá trình đọc tập thơ làm nẩy sinh trong tôi sự tò mò, đúng hơn là cảm nhận sự khác biệt đến của người ở tại một đất nước xa xôi như tôi. Trong bài thơ có câu thơ lấy làm đầu đề cho phần Một tập thơ Tình yêu như quả bóng pha lê, được đặt vào sự so sánh, ở một ý nghĩa nào đó, lao động với… tình yêu! Liệu điều này có thể xảy ra trong văn học châu Âu nói chung và văn học Ba Lan nói riêng không? Tôi nghĩ rằng bài thơ đã mang đến cho người đọc châu Âu một vầng sáng, tuy còn lờ mờ, chứ chưa hẳn là luồng ánh sáng có mức độ chiếu rọi cao, giúp họ nhìn nhận ý nghĩa lớn lao của lao động động ở châu Á: ***/ Công việc như quả bóng cao su/ rơi xuống/ lại nẩy lên/ tình yêu như quả bóng thủy tinh/ trượt tay là vỡ.

Một số bài thơ tiếng Việt chắc chắn rất khó chuyển ngữ (chứ chưa nói là dịch thành thơ) sang tiếng Ba Lan với tất cả những chiều kích cơ bản. Để giữ được tầng nghĩa đầu tiên, trong bản dịch, tính năng động sẽ mất đi, sẽ thoát ra khỏi con suối tình cảm của người Việt; một số liên tưởng mang tính triết lý, tôn giáo tập quán, khí chất… làm nên cao điểm trữ tình chỉ có thể có trong nguyên bản. Chẳng hạn: * * */ Anh đau khổ, em chưa hề đau khổ/ ước gì ta trộn lẫn vào nhau/ để đến biển em dạn dày sóng gió/ để lòng anh vợi bớt nỗi u sầu.

Hay bài thơ chứa đựng sự chân tình với con trai: * * */ Cha muốn con là người cẩn thận/ cha muốn con là người thẳng thắn/ cẩn thận còn ở đằng sau/ thẳng thắn cần hơn phải đặt lên đầu.

Và đây, thêm một ví dụ nữa, ví dụ cuối cùng: * * */ Thật khó nói trước lòng anh/ vì sự chân thành/ anh nói trước.

Việc dịch các bài thơ loại này đòi hỏi người dịch phải cố gắng ở mức cao nhất, chỉ cần coi nhẹ công việc mình làm hay “sáng tạo” tùy tiện hoặc lạm dụng chú thích ngoài văn bản, hiệu quả tiếp nhận ở bạn đọc sẽ giảm đáng kể.

Có thể có những bạn đọc Ba Lan như tôi sẽ lấy làm tiếc là Mai Quỳnh Nam đã đưa vào tập thơ những hồi ức khá đậm nét về cuộc chiến tranh chống Mỹ mà tác giả tham dự với tư cách người lính tại điểm nóng trên mặt trận phía Nam. Nhưng suy cho cùng tác giả hoàn toàn có quyền viết cả loạt bài miêu tả sự ác liệt của cuộc chiến tranh mà mấy chục năm sau đôi khi người đọc vẫn thấy lạnh xương sống khi đọc chúng. Chỉ có phóng đại quá mức cái ác thuần túy của chiến tranh mới làm nảy sinh trong lòng một bạn đọc như tôi sự kém nhiệt tình  đọc tác phẩm loại này. Vả lại khó làm khác được khi bi kịch của dân tộc Việt Nam và sự tham gia trực tiếp của tác giả vào các sự kiện nói trên đặt ra cho thi sĩ nhiệm vụ là đôi khi phải quay trở lại với sự khốc liệt của chiến tranh, với những gì kẻ thù đã gieo rắc trên đất nước của ông:

Màu trắng

Người đàn bà vật vã trên bàn đẻ

căng hết sức mình

để trở thành người mẹ

 

bao lần bác sĩ gỡ ra từ thân thể chị

những mảnh vụn bom găm

vá lành vết bỏng na-pan

 

và bây giờ, sau cơn đau kinh hoàng của người vượt bể

anh nâng đỡ trên tay đứa bé

dị dạng hình người

không tiếng khóc

 

anh rụng rời

cắn chặt môi

ghìm nước mắt

 

như có loạt bom hắt tê tái vào mặt

màu trắng đục những cơn mưa hóa học.

Trong bất cứ trường hợp nào, sự khác biệt không có nghĩa là xa lạ. Tiếp nhận những nội dung đến từ một nơi xa xôi luôn làm phong phú bản thân mình, vì vậy cần nuôi hy vọng rằng thế giới của mọi sự sáng tạo sẽ đi theo con đường như vậy. Xin chân thành khuyến khích bạn đọc thưởng thức tập thơ này.

NGUYỄN CHÍ THUẬT

Dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan

_______

* Mai Quỳnh Nam, Phía bên kia sự im lặng, bản dịch tiếng Ba Lan của Nguyễn Chí Thuật, với sự cộng tác của Kalina Izabela Zioła, Nxb G&P, Poznań 2020, 172 trang.

Nguồn: https://vanvn.vn/

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm