TIN TỨC

Nhà văn Nguyễn Một - Người mắc nợ ký ức

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-10-16 00:04:14
mail facebook google pos stwis
1852 lượt xem

Lê Trâm

Quê nhà Nguyễn Một thời chiến tranh là vùng đất “xôi đậu”, nơi ngày nào cũng xảy ra chiến sự, các bên giành nhau từng mét đất. Cha bị bắn chết khi ông còn trong bụng mẹ. Chưa được bốn tuổi, mẹ bị viên đạn lạc bắn ra từ một lô cốt của lính Mỹ, trút hơi thở cuối cùng khi đang ôm con ngủ… Những ám ảnh ấy chừng như khiến anh trở thành người mắc nợ ký ức, được bày biện với chính mình trong tập “Truyện ngắn Nguyễn Một” (NXB Hội Nhà văn - 2020).

Nhà văn Nguyễn Một

Quê nhà một cõi…

Có lẽ không phải ngẫu nhiên Nguyễn Một mở đầu cuốn “Truyện ngắn Nguyễn Một” với tác phẩm “Tha hương”. Nơi đó, được khái quát đơn giản nhưng dễ hình dung: “Quê tôi nghèo nhưng có một dòng sông rất đẹp. Dòng sông là tài sản lớn nhất của tuổi thơ tôi”. Ở đó, có núi Chúa như một chứng nhân nhìn xuống làng mạc, nhìn xuống bao phận người giữa thời ly loạn, là cụm tháp Mỹ Sơn đẹp ma mị chứa đựng bao nhiêu câu chuyện huyền hoặc phủ lên suốt một tuổi thơ đầy biến động của tác giả. Là vùng rừng đồi gò cằn khô sỏi đá với những câu chuyện kể không dứt của người lớn, về một gia tộc có những số phận kỳ lạ, về những cái chết của bên này lẫn bên kia, những cái chết “không ít điều kỳ lạ”, về những cuộc bỏ xứ ra đi, có kẻ quay về có người đi biệt…

Trong “Truyện ngắn Nguyễn Một”, những tên truyện nghe qua đã thấy nao lòng: “Sông xưa”, “Xứ người”, “Viễn xứ”, “Gió núi”, “Thanh minh”… Trong bước đường tha hương, quê nhà thỉnh thoảng cứ dội lại trong tâm khảm người viết, không dứt được. Nhiều lúc bật lên trong câu chuyện cứ như những lời tự sự: “Tôi mang cái sinh lực tràn trề của tuổi hai mươi lên đường lập nghiệp. Tôi sẽ đến một vùng đất màu mỡ. Nghe anh Nam kể, xứ đó cây sắn vứt ngoài hàng rào, vài tháng sau nhổ lên củ to bằng bắp chân. Chứ không như cái miền quê nghèo khó này, trồng được củ sắn bằng ngón chân phải tốn cả gánh phân chuồng. Tôi đã chán tột cùng sự nghèo khổ truyền kiếp. Cậu tôi quanh năm xòe bàn chân “Giao Chỉ” bám trên những thửa ruộng khô khốc, để đổi lấy ngày hai bữa cơm độn, ăn xong ợ lên rát cổ họng. Tôi ra đi. Cái tình nghĩa quê hương, mà cậu tôi bỏ công giáo dục từ nhỏ, chẳng hề lóe sáng trong sự mông muội của đầu óc đã tê liệt vì đói khổ. Thật ra, tôi có chút xao động khi cô gái mà tôi dự định cưới làm vợ đã khóc ướt đẫm ngực áo trong đêm chia tay. Dù thế nào tôi cũng sẽ đi!” (Xứ người).

Chiến tranh luôn ám ảnh, thỉnh thoảng dội lại trong hồi ức. Cái chết của Hương trong “Tiếng chim sẻ trong thánh đường” chắc chắn có sự liên tưởng về cái chết oan nghiệt của người mẹ năm nào: “Hương nằm như đang ngủ. Một viên đạn vô tình xuyên qua lồng ngực tuổi dậy thì của em. Chiến tranh! Tôi nghe mẹ Hương kể rằng “Trước lúc hấp hối, con Hương muốn được quàn trong thánh đường nhỏ bên nghĩa địa”.

 Ở truyện “Viễn xứ”, phía sau cái giọng Quảng Nam đặc sệt bày ra trong câu chuyện là một cái kết buồn. Từ buổi sơ giao không xa ấy: “Nè! Cô lòm ơn chỉ dùm nhà ven hóa chỗ mô?- Chớ ông ở mô mà không biết nhà ven hóa?-…- Quảng Nom!”. Và người con trai ấy đã chết sau một lần đùa với cô gái. Buổi chiều mưa buồn cô gái mỏi mòn chờ chiếc xe tang đưa anh về quê.

Không còn gì buồn hơn nữa với một kiếp người tha hương: “Trời sập tối. Mưa nặng hạt. Dãy nhà hai bên đường đóng kín cửa. Chiếc xe màu đen từ từ lăn bánh vào thị trấn và dừng lại trước con hẻm. Xe tang của Trọng. Hạnh như dính chặt vào ghế không đứng lên nổi. Người phụ nữ đứng tuổi thò đầu ra ngoài nhìn quanh rồi khoát tay. Chiếc xe trở đầu khuất dần trong làn mưa mờ đục. Hạnh lao ra đường, mưa quất vào mặt rát rạt”. Một đoạn văn đặc tả như một shot phim hay. Theo tôi, đây là đoạn văn cô đọng và hay của Nguyễn Một.

Ghi dấu đậm nét về một quê xứ có lẽ là “Giếng tiên”. “Ngày ông tổ tộc Trần đến lập nghiệp, lúc đó nơi đây còn là rừng rậm, đã có giếng này. Hồi xưa cả làng xài chung, bây giờ người đông nên nhà nào cũng đào giếng riêng gần nhà. Vì vậy, giếng tiên thành sở hữu của gia đình tôi.

Ngôi nhà từ đường to lớn của tộc Trần do ông tôi cai quản, mảnh vườn không lớn lắm nhưng có nhiều loại trái cây”. Câu chuyện của nhân vật xưng “tôi” và chị Sinh có nhiều tình tiết nhưng ám ảnh nhất vẫn là cái chết của người mẹ, qua lời kể của ông, lại hiện về đỏ sẫm dưới trăng. “Mẹ mày chết đêm Rằm tháng Mười, linh lắm… Tôi còn nhớ hôm đó trăng sáng như ban ngày, đang thiu thiu ngủ nghe heo kêu, tôi cầm đèn ra coi thử, đi ngang gường con nhỏ, tôi giẫm nhằm vũng máu mới hay nó chết. Tội nghiệp con nhỏ, nó mới mười chín tuổi đầu. Các anh biết không, một viên đạn đại liên trên đồn Bốn Lăm bắn xuyên qua đầu con nhỏ, may mà thằng này (ông chỉ tôi) nằm dưới nách mẹ nó, nên viên đạn trượt qua đầu nó, làm bị thương con heo đằng sau nhà...”. Một cái chết đầy ám ảnh nên hằn lên trong trí nhớ mọi người!

Có cảm giác ký ức như món nợ dai dẳng thỉnh thoảng cứ hiện lên, không nơi này thì nơi khác. Là người, trong “Chiều tha hương”: “Ông thường nhớ những buổi chiều xa lắc xa lơ. Từ dạo ông còn là chú bé làm cái việc thắp nhang cho vô số bàn thờ trong căn nhà từ đường rộng mênh mông… Ông còn nhớ mỗi buổi chiều như vậy, ông thường thơ thẩn nhìn xa xăm về phía triền núi Chúa”. Ở đó có những con người “quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, vậy mà con gái Mỹ Sơn cứ xinh đẹp mơn mởn và trắng như bông bưởi...

Những cái nhớ như vậy, dai dẳng: “Làng Phú Đa nằm cạnh chân núi Chúa. Trai làng khỏe mạnh nhất vùng, những bắp thịt săn cuồn cuộn, có lẽ do những tháng ngày lùng sục, bắt núi rừng cúi đầu dâng cho họ cái ăn cái mặc để bù lại sự cằn cỗi của cánh đồng bậc thang khô rốc, nứt nẻ dưới cái nắng chói chang của mùa hè và những ngọn gió hun hút thổi cháy người”.

Rồi “Sông xưa” với cô gái hái dâu đã ngã xuống dòng sông trong “một buổi chiều nhạt nắng, bãi dâu bên bồi, chuyển sang màu xanh thẳm” (Khoảnh trời sót lại)… Tất thảy, quá đủ để làm nên bao nhiêu sự ám ảnh!

Xứ người

Không gian truyện ngắn Nguyễn Một là vùng đất anh đã chọn để sống. Ở đó, một vùng Đông Nam bộ không kém khắc nghiệt, nhất là thời điểm sau khi kết thúc chiến tranh. Nhà văn Nguyễn Hiệp chọn rất đúng cụm từ để nói về sự lựa chọn ấy trong một bài viết: “Mê lộ trong hành trình tha hương”, con đường để trở thành một nhà văn tiếng tăm không hề dễ dàng. Không gian ấy thể hiện rất rõ cùng những số phận, đa phần là lưu dân, không kém phần nghiệt ngã. Thấy rất rõ khi đọc những: “Thị trấn thiếu dòng sông”, “Chuyện tình trong rừng cấm”, “Hoa mua bên hồ”, “Mắt lá”, “Vũ điệu trên đỉnh Kung Pô”… Những đặc trưng văn hóa của các dân tộc ít người như Châu ro, Mạ, Tày Mường, được Nguyễn Một viết lên theo kiểu khác, thường là những câu chuyện tình buồn, đầy trắc trở và không kém phần nên thơ đã khiến truyện đọc rất lôi cuốn.

Chỉ với 20 trang sách, một miền Đông Nam bộ hiện ra khá kỳ vĩ dưới ngòi bút của Nguyễn Một qua truyện ngắn “Trước mặt là dòng sông” nên không có gì làm lạ khi đạo diễn Khải Hưng đã chọn để dựng thành phim. Cũng vậy, “Xứ người” là một cách khắc họa khác về vùng đất đã níu giữ chân bao lớp người lưu lạc, đã đến, lưu lại, sống và trở thành “người cũ của vùng đất mới”. Sự gặp gỡ, “giao thoa” giữa người cũ - người mới sau này đã làm nên một lớp công dân mới, một cố kết xã hội mới ở vùng đất này, thể hiện khá rõ nét qua “Miền Đông”. Và, hầu hết không gian truyện đã đề cập vẫn là sự đan xen giữa cảnh cũ, người với đất mới - người mới, qua sự “kết nối tài tình” của tác giả.

Tương tự như vậy một “Lửa bên sông”, đã vẽ lên rất rõ nét một Đồng Nai đầy mê hoặc như câu ca dao tác giả chọn làm đề từ: “Rồng chầu xứ Huế, ngựa tế Đồng Nai/ Nước sông trong đổ lộn sông ngoài/ Thương người xa xứ lạc loài tới đây”. Truyện đọc nghe buồn như một nỗi ngậm ngùi cùng lòng người xa xứ! Truyện Nguyễn Một cứ như những lời tự sự, những lớp kể nhẩn nha.

Những tình tiết truyện mới cũ trôi đi, đan xen. Hầu hết các truyện đều kết cấu bởi nhiều xen cảnh khác nhau, đan xen kiểu kết cấu điện ảnh nhờ thế không gian truyện được mở ra khá nhiều và mạch chuyện cũng mở ra nhiều hướng giúp hạn chế được sự đơn giản, đơn điệu của câu chuyện.

Nhiều câu văn ngắn, gọn, súc tích khiến mạch kể trôi đi khá nhanh đồng thời tạo nên nhiều sự liên tưởng, “đồng sáng tạo” ở người đọc. Phần lớn các truyện viết dựa vào các câu thoại khiến truyện gần gũi cuộc sống, sống động hơn, có cảm giác đang đọc một truyện ngắn “như thiệt”. Như đời vốn vậy!

L.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm