TIN TỨC

Nội trú trong ta một nỗi buồn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-09-25 09:55:16
mail facebook google pos stwis
1095 lượt xem

ĐẶNG HUY GIANG

(Đọc “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024)

Tôi ấn tượng với “Năm ngón tay chưa đặt tên” ngay từ hai bài thơ đầu tiên: “Vẫn thế nhiều khi” và “Cánh đồng”. Một bài viết về em (tình yêu) và một bài viết về cánh đồng (quê hương).

Trong cái nhịp thời gian “Ngày đung đưa/ Tháng đung đưa/ Em và anh ngồi trên cánh võng/ Lắc qua ngày, lắc qua đêm” và ví “Thời gian quanh ta là con chó nhỏ”, Đinh Nho Tuấn nhận thấy em lớn lao đến mức: “Những ngày em xanh rất tuyệt/ Trái đất quay vì có em/ Những ngày em lệch lạc/ Em vùi trái đất vào đêm”. Khi yêu, con người ta thường tuyệt đối hóa tình yêu như vậy, coi tình yêu lớn lao như vậy! Đó là điều dễ hiểu và dễ giải thích. Rồi tình yêu cứ thế mà trào dâng như một lẽ tự nhiên: “Những vần thơ anh không bằng ngôn ngữ/ Xin vang lên như triệu triệu vòng ôm”.

Viết đến đây, tự dưng tôi lại nhớ đến một bài thơ có cái tứ thật khác người của Đinh Nho Tuấn, cũng viết về tình yêu: “Sao em nhiều thế em ơi!”. Một em mà trở thành nhiều em, nhiều em mà vẫn chỉ là một em và có xuất phát từ em... Đó là một ý tưởng hay, chỉ có người nào thực sự yêu, thực sự sống với tình yêu, thực sự say đắm với tình yêu, mới có thể viết ra được như thế!

Trong “Cánh đồng”, nhìn bông lúa mà nảy sinh ý nghĩ như thế này, tâm trạng như thế này, thì cũng thật là hiếm hoi: “Nặng lòng/ Mỗi bông treo hàng trăm mặt trời/ Cúi đầu trùng trùng câu hỏi”. Rồi cũng từ đấy mà hốt nhiên bật ra: “Còn lúa là còn quê hương/ Còn cánh đồng là còn lối ta về”, thì thật là sâu sắc và chí lý!

Đó là hai câu thơ cho thấy “lúa” và “cánh đồng”, quan trọng đến mức nào đối với làng quê Việt, làm nên sự sống còn của làng quê Việt, là chứng chỉ của làng quê Việt và đây cũng là những lời xác quyết như “dao chém đá” về “lúa” và “cánh đồng”.

Cũng ít người, tri ân lúa hết mực như Đinh Nho Tuấn: ”Dành cho lúa những lời thứ nhất/ Dành cho lúa những lời sau cùng” và cũng ít người, canh cánh nỗi lo mất ruộng, mất làng đến xót xa như Đinh Nho Tuấn: “Tháng năm ăn hết những cánh đồng/ Những ngôi nhà nuốt hết những cánh đồng” để đến mức chỉ còn “Tiếng côn trùng/ Dắt nhau về những khoảng không/ Sót lại”. “Ăn” và “nuốt” là hai động tự mạnh, đã gọi sự vật với đúng tên gọi của nói, nói đến sự tàn phá đến mức huỷ diệt của thời đô thị hóa mang màu sắc thị trường.

Cố hương trong “Năm ngón chưa đặt tên”, lúc nào cũng đằm sâu ký ức với những kỷ niệm đẹp đến nao lòng và “lâu đến bao nhiêu cũng không già”: “Tắc kè thảng thốt đêm không trăng/ lung linh tàn tro, cong dáng người nhóm bếp/ bụi tre gai sao đêm nào cũng khóc/ đêm bao mươi oa oa bật lên khỏi tro vùi” (“Nồi bánh đêm ba mươi”), “Làng tôi xanh một vệt dài đuôi mắt/ Sống bình yêu như một đóa hoa rừng/ Lấy tiếng diều từ linh hồn của đất/ Làm nắng vàng, trăng sáng, mưa tuôn” (“Tôi rơi về làng tôi”), “Đất còn run, ngày còn se lạnh/ Nước co ro, cỏ tai tái đôi bờ/ Mặt trời xa, nắng vẽ vầng ánh sáng/ Ru nỗi buồn mắt hồ biếc vu vơ” (“Đồng quê”)...Và những cái đã qua ấy đã trở thành cái nhớ dai dẳng đến nỗi:

Ký ức dội về hạnh phúc, khổ đau

Làm sẹo trên thân tôi da thịt...

  (“Ký ức”)

Trở lại với em (tình yêu), ít nhất Đinh Nho Tuấn có hai tứ thơ: “Khi còn năm ngón chưa đặt tên” và “Mười ngón chưa đặt tên”. Rõ ràng ở đây, ngón (tay) đã trở thành biểu tượng. Nếu trong “Khi còn năm ngón chưa đặt tên” có năm ngón chưa đặt tên, thì trong “Mười ngón chưa đặt tên” lại có đến cả mười ngón chưa đặt tên. Vậy là mỗi ngón cũng có mỗi ngôn ngữ của riêng nó, mà chỉ những lứa đôi mới gọi ra được, đọc ra được như một mật ngữ của tình yêu. Chắc chắn, trong mười ngón đó, chất chứa rất nhiều bí ẩn, chưa dễ giải mã được. Và đó cũng là thế giới riêng của tình yêu. Không thế, tại sao Đinh Nho Tuấn lại hạ bút: “Mười ngón chưa đặt tên/ Thoa dịu mái đầu phủ khói và trái tim ngập tràn nỗi đau anh/ Anh không thể tưởng tượng nổi mình ngờ nghệch đến mức nào/ Khi chưa đặt tên cho mười ngón”.

Thơ tình của Đinh Nho Tuấn đau đáu nỗi niềm, nhiều lúc chữ như cuộn xoáy vào nhau, xoắn xuýt vào nhau để sinh nghĩa mới: “Vết anh, vết em ăn vào nhau da thịt” (“Cho em ngày cạn”), “Thì em hỡi đời người như gió thơm/ Tình yêu đó không bao giờ nguyên khối/ Bao mảnh vỡ chính là ta nhập lại/ Rồi tan ra từ giây phút lúc này” (“Phép màu”), “Trời đất giao thoa, cánh nhạn thiên di/ Khi xa em, gia tài là nỗi nhớ/ Trăn trở, mơ hồ gửi vào giêng hai/ Theo cánh chim trời bay đi muôn ngả” (“Nhớ”)...Riêng trong “Logic em”có bốn câu hay ở cách nói, lại rất thi sĩ:

Không phải mùa khô đâu anh

Đó là mùa bầu trời quên khóc

Không phải mùa mưa đâu

Đó là mùa lệ dâng đầy mắt.

Nhiều bài thơ đạt về tổng thể, trong đó có “Tấm nhân từ đâu có quê hương”. Chỉ tên bài thơ này, riêng câu thơ này, đã được coi là một phát hiện. Còn những câu thơ hay có sắc thái tình cảm, có phần tài hoa và tài tình cũng không hiếm: “Nội trú trong ta một nỗi buồn” (“Chốn điêu linh nhịp thở không màu”),“Nếp thơm trong chén hay lửa đắng/ Nuốt vào mình thành ngụm rưng rưng” (“Ly rượu đầu năm”), “Tay ấp thiền cho năm ngón có đôi” (“Tay ấp thiền cho năm ngón có đôi”)...Tôi dám chắc, cũng ít người viết về chữ “dưng” lạ và biến ảo như Đinh Nho Tuấn:

Duyên kiếp nhân gian hay biết mấy

Dưng dửng ngàn năm vẫn dưng thôi

Em đi dưng này sang dưng khác

Thoắt cái dưng thầm em là tôi.

Cho dù phải “bơi trong đời rộng/ vẫy vùng nước mắt nhân gian”, sống trong “nạn đói tình người” và đôi khi phải “đâm sầm vào nhân tình thế thái”,  nhưng về mặt thái độ và bản lĩnh của Đinh Nho Tuấn, lúc nào cũng quyết liệt, nhất quán. Anh chấp nhập đến mức: “Ngọt ngào và mặn chát/ Xin cứ hắt vào tôi” (“Ly rượu tháng tư”). Anh coi: “Mải miết chết bằng mải miết sống” (“Hoa lộc vừng”). Anh luôn sẵn sàng “năm ăn năm thua” với chính mình trước trang giấy trắng: “Tôi vẫn viết như ngày mai tuyệt chủng” (“Tôi thách tôi”). “Đêm” vẫn “đuổi theo ngày”, “ngày” vẫn “đuổi theo đêm” theo quy luật tự nhiên, cũng giống như “không ai đốt nhưng phượng hồng vẫn cháy”, còn nhà thơ của chúng ta thì “đuổi theo những ký tự”, “ẩn trong phe nước mắt quê hương” mà làm thơ hết mình một cách tự thân.

Nói không quá thì “Năm ngón chưa đặt tên” giống như một tòa nhà thơ có nhiều cánh cửa để đi vào và chính ở đó, mỗi cánh cửa như mở ra một điều gì đó mà độc giả hằng trông đợi.

Phố Khuất Duy Tiến đêm 23 - 9 - 2024

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm