TIN TỨC

Phát triển

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-08-17 15:43:03
mail facebook google pos stwis
811 lượt xem

LÊ THANH HUỆ

Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách. 

Bìa sách ĐỒNG BẰNG ÂM VANG VÀ NHỮNG NỐT TRẦM – Mã số ISBN: 978-604-497-253-4.

Sách chia làm 2 phần. Phần I. Văn học và phê bình văn học có 5 bài, gói gọn trong 51 trang, chiếm 23% số trang nhưng dung lượng và kiến thức mới đưa vào đây được cô đặc, giản hóa phù hợp với độc giả không chuyên về lý luận phê bình có được một số kiến thức đại cương vừa đủ để đọc phần còn lại của cuốn sách.

Bảo Bình phân biệt người viết phê bình văn học khác với nghề giáo bình giảng văn học hay người viết cảm tưởng (cảm nhận và liên tưởng): "nhà phê bình văn học là người nghệ sỹ chân chính nhất.... họ (cần phải có) trí tuệ và mạnh mẽ khi sử dụng ngòi bút của mình trên con đường đi tìm chân lý, đi tìm cái đẹp. Nhà phê bình (văn học) là người có năng lực thẩm định văn chương, phân tích lý tính, nghị luận..., có hiểu biết sâu sắc, am tường văn hóa, trực giác mãnh liệt... đó là những yếu tố không thể thiếu ở nhà phê bình" - trang 10.

Định nghĩa phê bình tác giả văn học ngắn gọn: "phác họa nên chân dung, sự nghiệp, phong cách, vị trí (trong nền văn học và do đó nếu không có vị trí, vê lâu dài, sẽ không gọi là tác giả văn học) của nhà văn" - trang 13.

Phân tích tác phẩm "dựa trên cơ sở lý luận, (nên) có đối chiếu, so sánh với những tác phẩm, tác giả cùng thời; rồi từ đó nhận diện khái quát một vấn đề, bày tỏ một quan điểm hết sức rõ ràng, điều chưa ai làm được" - trang 17. Từ đó cho thấy nếu phê bình văn học không phát hiện cái mới so với thời đại, hoặc khơi gợi vấn đề mới trong hiện tại với tác phẩm cũ, thì bài viết không đạt chuẩn mực phê bình văn học xét theo tiêu chí phát triển và cũng không ích lợi cho người sáng tác cũng như văn hóa đọc.

Nghiên cứu sự phát triển thể loại văn học theo dòng thời gian, dùng cách biểu đạt hình ảnh và có chiều thời gian do tác giả chỉ ra quy luật vận động: "Vận động ở đây là sự biến đổi. Là sự đa dạng hóa, phong phú thêm về thể loại; là sự tiến hóa (phát triển) cao hơn” - trang 22. “Về bản chất, thể loại đã vận động song hành (trong) cùng lịch sử văn học” - trang 23;  góp phần tạo ra sự phát triển ngày càng cao hơn. Đó là sự tác động biện chứng của mối liên hệ giữa hình thức và bản chất. Cách thức thể hiện quy luật này là “sự tương tác: với đời sống, giữa các thể loại (với nhau) với bên ngoài, và với ý thức sáng tạo, (thúc đẩy do ý muốn) cách tân chủ thể” - trang 24. Lý do sinh ra thể loại mới “Với văn học, nhu cầu làm mới cho nghệ thuật là nhu cầu bất tận, và thế là thể loại mới ra đời” - trang 26.

Bàn về tâm lý học, lĩnh vực luôn ẩn vào tác phẩm văn chương; Bảo Bình lướt qua Phân tâm học của S.Freud: “cấu trúc tâm lý con người tương ứng với vô thức, tiền ý thức và ý thức”.Tương ứng với cấu trúc nhân cách: “Cái ấy: gồm bản năng vô thức, không tính tới các quy tắc và quy định xã hội” – phần con. “Cái tôi: hoạt động, (bị) điều chỉnh và kiểm soát bởi thực tiễn” – có ý thức - trang 30 “Cái siêu tôi: bao gồm ý thức và đạo đức” - trang 31; do giáo dục và ý thức cá nhân xã hội tạo nên được văn học tận dụng cho mục đích ẩn: hiểu sâu hơn về bản chất con người.

Về thủ pháp viết truyện ngắn, Bảo Bình đã làm rõ hơn, sâu hơn về 3 loại tình huống nhỏ đan xen cần được đặc biệt chú ý: “Tình huống: tâm lý / hành động / nhận thức… ít khi tách rời… luôn bổ sung, tương trợ lẫn nhau” - trang 48.  

Để kết lại phần 1, Bảo Bình dẫn ra thể loại thơ mới “Thơ 1-2-3”; “được khai sinh bởi nhà thơ, nhà báo Phan Hoàng” - trang 54 là minh chứng sống động của hình thức vận động trong phát triển của nội dung. Tác giả chỉ ra đặc điểm thể loại thơ 1-2-3: “câu 1 và câu 6 là một mắt xích vô hình, bện chặt. Đó không chỉ là sự hô ứng, mà còn là sự liên kết tứ đầy tính logic và ám gợi (mở). Câu mở và câu kết của bài thơ như ổ khóa và chiếc chìa khóa của nhau vậy, (tạo ra hiệu ứng) sẽ dừng lại nơi tâm hồn hoặc tư duy (và có thể là cả hai của) người đọc một tình cảm, một vấn đề nào đấy cần được quan tâm, chia sẽ và khai mở” - trang 55. Đó là hình thức mới trong nội dung cũ viết về mọi chủ đề mà các tác giả đã viết mòn cả bút được nhà thơ Phan Hoàng tìm ra hình thức thể hiện mới. Và ở đây, Bảo Bình đã nhìn nhận thể loại này như một đột phá của thi ca. Hiện tại, một số nhà thơ sử dụng niêm luật thơ 1-2-3 trong sáng tác của mình.


Nhà thơ Phan Hoàng.

Có thể nói, ở phần lý luận văn học, tác giả đã mạnh dạn đưa ra những tư duy riêng biệt về phê bình bên cạnh những lý thuyết đã định hình từ những ngày đầu của phê bình văn học Việt Nam, như “ Phê bình và Cảo luận của Thiếu Sơn”, “ Sự cần thiết của điểm huyệt trong truyện ngắn”, “Sự vận động của thể loại văn học”..v..v..Tác giả định nghĩa vai trò tiên phong của nhà phê bình văn học. Sự tác động tích cực tạo môi trường phát triển, cũng như tạo động lực sáng tác nói chung mà nhà phê bình có thể góp sức mang lại cho văn đàn.

Không tìm thấy từ “phê bình văn học” trong từ điển Việt Nam. Chỉ có mục từ “PHÊ BÌNH – động từ. Đem cái hay hoặc cái dỡ ra mà xét và tìm nguyên nhân, để do đó phát huy cái hay, sửa chữa cái dở: Gạo càng giã càng trắng, người càng phê bình, càng hay (Hồ Chí Minh)- Trang 965; Từ điển Tiếng Việt - Văn Tân chủ biên, Nhà xuất bản khoa học xã hội, in lần thứ 3 có chỉnh lý bổ sung, năm 1991. Cũng từ điển này, trang 1326 có mục từ “VĂN HỌC – danh từ. Nghệ thuật dùng ngữ ngôn và hình tượng để biểu hiện tình cảm, tư tưởng, đời sống”. Ghép hai từ lại chúng ta có cụm từ PHÊ BÌNH VĂN HỌC; và theo nghĩa trên, cuốn sách này không làm nhiệm vụ phê bình văn học; Cuốn sách không viện dẫn kiến thức lý luận phê bình văn học, lý luận sáng tác văn học.

Do đó, nhiều học giả định nghĩa phê bình văn học với nghĩa rất rộng. Gần đây, hiện tượng trí thông minh nhân tạo AI (Artificial intelligence) bình giảng thơ được một số nhà văn, nhà thơ thích thú do tính duy lý của các bình giảng và cũng được xem như là phê bình văn học.

Đa số cho rằng: khác với người viết phê bình văn học nghiệp dư ở chỗ nhà lý luận phê bình văn học được đào tạo bài bản và sau đó tự học lên…

Nếu đối chiếu với Hoài Thanh, nhà phê bình nổi tiếng nhất 2 thế kỷ ở nước ta, đã có những đóng góp về mặt phê bình, lý luận để khẳng định Thơ mới trong văn học Việt Nam thế kỉ XX; ông chẳng có học hàm học vị giáo sư, tiến sỹ văn chương… có thể nói rằng: nếu tạo ra kết quả hướng dẫn nền văn học phát triển và thẩm định giá trị các tác phẩm trường tồn thì bất cứ họ là ai đều được độc giả tôn vinh là nhà lý luận  phê bình văn học thực thụ; các ý kiến, lập luận sẽ được độc giả lưu tâm.

***

Phần II. Tác giả - Tác phẩm có 22 bài, gói gọn trong 167 trang, chiếm 73%.

Tác giả lập luận độc giả quyết định về đánh giá giá trị tác phẩm từ đó: “sự định vị tác giả trong tiến trình văn học… không bao giờ bất biến, vĩnh cữu; bởi nó liên quan đến sự thay đổi các cách đọc hiểu của từng thời đại, thậm chí từng cá nhân” - trang 37. Từ nguyên lý này, các bài viết về phê bình tác phẩm được Bảo Bình tập trung phân tích 2 khía cạnh:  Đóng góp của tác phẩm, tác giả ở góc độ định vị tác giả trong nền văn học với góc nhìn mới của hôm nay, nhưng không phải là bất biến nếu xét từ khi tác phẩm ra đời và mãi mãi về sau khi nó còn sống đời sống văn học sử.

 Đánh giá sự nghiệp thơ của nhà thơ Hoài Vũ: “Tình cảm mà ông đặt vào (thơ) là một sự vô cùng của cái đẹp, là sự vĩnh hằng của lý tưởng trong sự lồng ghép các hiện tượng xã hội mang tính lịch sử. Bằng bút pháp trữ tình xen lẫn tự sự, nhà thơ xuyên thẫm (thẩm thấu) trái tim thuần khuyết yêu thương vào hiện thực chiến tranh tàn khốc, làm bật dậy những khát khao cháy bỏng của con người. Khát khao hạnh phúc của dân tộc” ” - trang 64.

 Nhà thơ Hoài Vũ xuất hiện với 3 bài viết trong tập sách này, đủ để thấy sức ảnh hưởng cũng như sự trân trọng mà tác giả dành cho nhà thơ. Từ “ Thì thầm với dòng sông”, “ Gái thời chiến” và rồi “ Hoa trong tuyết”: “Dịch giả Hoài Vũ có sự chọn lọc hợp lý, tinh tường để rồi chuyển ngữ một cách sinh động, sắc nét và cuốn hút đến lạ lùng. Không khó để thấy rằng những câu chuyện được dịch thuật ở đây gần với chúng ta về văn hóa, về lịch sử…” Hy vọng khi tái bản, Bảo Bình sẽ làm rõ hơn về chân dung văn học của nhà thơ Hoài Vũ, nét khác biệt của nhà thơ; làm nên sự định vị tác giả trong tiến trình văn học Việt Nam như là đại diện lớn nhất của tác giả thơ lãng mạn cách mạng trong bối cảnh chiến trường khốc liệt Long An và vùng ven Sài Gòn ở vào những năm tháng chiến tranh chống Mỹ khốc liệt nhất.

 “Nguyễn Minh Châu là cây bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn…. Nhà văn đã phản ánh hiện thực đời sống / thân phận con người trong những hoàn cảnh khắc nghiệt, đặc biệt và bi kịch bằng cái nhìn sâu sắc, bằng cảm xúc xót xa và bằng tâm trạng đau đớn … (nhưng khác với các tác giả đương thời là tâm trạng) bất lực”. - trang 70 và trang 71. Nếu không có phát hiện đó, dĩ nhiên Nhà văn Nguyễn Minh Châu, tác giả duy nhất không sinh ra và lớn lên cũng như không có tác phẩm viết về đồng bằng sông Cửu Long sẽ không có sự hiện diện trong tập sách này do không có sự định vị vững chắc trong văn học sử của địa phương. Đọc chậm “ Đồng bằng, âm vang và những nốt trầm”, ta sẽ nhận ra Bảo Bình không phải chỉ nói về các tác giả đồng bằng, mà cả những tác phẩm viết về đồng bằng, dù tác giả đó có sinh ra và sống ở bất kỳ đâu trên đất nước này.

“Thơ Trang Thế Hy – cuộc giao tiếp hữu hiệu giữa nội tâm và ngoại giới – lồng trong những sắc từ âm ngữ dư ba của một hệ tư tưởng minh triết và nghiêm khắc về nghề văn và người cầm bút” - trang 78, theo tôi nhận định này có nét độc đáo, cẩn ngôn và chuẩn xác mà tác giả dành cho nhà thơ Trang Thế Hy.

Hay, “Đồng bằng Nam bộ với các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer, Chăm… làm nên một đời sống văn hóa đa sắc màu, độc đáo. Đời sống lao động sản xuất cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó. Đời sống tinh thần phóng khoáng, bộc trực, hy sinh. Tất cả, quyện vào nhau, làm nên một đồng bằng trù phú, cuốn hút và say đắm” - trang 107. Đó là nền để 18 tác giả sinh ra và lớn lên ở đồng bằng sông Cửu Long tạo ra sự nghiệp văn chương được tác giả Bảo Bình chăm chút nâng niu nên tìm được nét mới định hình trong nền văn học nước nhà, đưa vào tập sách. Cách mà tác giả đánh giá về tác phẩm của các nhà văn khiến tôi trân trọng, Bảo Bình công phu tìm ra những điểm mạnh, cái hay mà tác phẩm mang lại, đồng thời rất khéo léo, nhẹ nhàng và thuyết phục khi chỉ ra những mặt còn hạn chế. Trong văn chương, cần lắm thay những ngòi bút tâm huyết thế này.

Phần tác giả tác phẩm Cần Thơ phải kể đến các tên tuổi như: Lê Chí, Phù Sa Lộc, Trúc Linh Lan...cùng một số cây bút trẻ như: Phan Duy, Huỳnh Ngọc Huy Tùng. Cũng nhờ có “ Âm vang và những nốt trầm” mà bạn đọc được biết nhiều hơn đến các tác giả cũng như một số tác phẩm hay, mang đậm giá trị nhân sinh, đạo nghĩa. Cũng như giúp bạn đọc hiểu sâu hơn về đất và người nơi vùng châu thổ nghĩa tình. Ở đây, tôi chỉ trích ra những nghiên cứu có hàm lượng mới, mang tính học thuật cũng như giá trị văn học mà tác giả đã dày công mang lại, để thấy rằng “ Trong văn chương, trường phái triết học tâm đắc thường sẽ ảnh hưởng sâu sắc ngòi bút tác giả. Và sự thấu suốt về lý luận, thể loại cũng sẽ tác động không nhỏ đến thủ pháp nghệ thuật. Cùng với đó là tâm hồn, thái độ, tư duy, trình độ… khiến mỗi nhà văn, nhà thơ sẽ làm nên sự khác biệt cho mình. Một tư tưởng, một phong cách, một giọng điệu… không trùng lắp và nhầm lẫn được” trang 221.

Do bài viết chỉ là cởi ngựa xem hoa nên tôi không thể đề cập chi tiết hết 18 bài viết còn lại. Có lẽ, tìm đọc là cách duy nhất để bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm cũng như một số tác giả nơi vùng sông nước hữu tình này.

Nhà văn Bảo Bình sinh năm Nhâm tý, tên thật Lê Thị Thanh Tuyền. Nguyên là Trưởng khoa Sư phạm, trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang. Hội viên Hội Nhà văn Cần Thơ, sống và viết tại Cần Thơ. Khi còn là sinh viên, Bảo Bình đã sáng tác và có thơ đăng báo. Khi trở thành giảng viên, Bảo Bình là cộng tác viên thường xuyên của tạp chí ngành, tạp chí văn nghệ Tỉnh. Có nhiều thơ, văn đăng ở các báo và tạp chí. Trong quá trình làm giáo dục, tình yêu văn chương được Bảo Bình thể hiện trên bục giảng, và giờ đây “chọn nghỉ hưu trước tuổi để có nhiều thời gian hơn cho gia đình và viết lách”, Bảo Bình đã tiếp tục hành trình đam mê văn học bằng ngòi bút sắc bén của mình trên cả lĩnh vực sáng tác lẫn phê bình. Thơ văn của Bảo Bình đã không còn xa lạ với bạn đọc, một số bài thơ đã chạm vào cảm xúc của các nhạc sĩ và cất lên thành lời nhạc sâu lắng, như “ Trầm tích”, “ Lời ru bướm vàng”,“ Tiếng đàn từ ngôi nhà sau vách đá”... Một số tác phẩm của Bảo Bình đã được đưa vào chương trình giáo dục địa phương lớp 12, như “ Mùa điên điển”, “ Nghiêng thời gian”, “ Mẹ, ba và con”...minh chứng cho năng lực sáng tạo và cảm thấu văn chương nơi tâm hồn tinh nhạy này.

Bàn thêm về đặt tên tập sách, dưới dạng duy tình, muốn đền ơn Nam bộ, nơi sinh thành nên tác giả đã chọn đặt tựa đề 8 chữ, khá dài; tuy nhiên đã phần nào khái quát được nội dung mà quyển sách muốn đề cập.

 Hiện nay, phê bình văn học nhiều nhưng mãng lý luận văn học ít được quan tâm, việc có một tác giả viết về mãng này ở Tây Đô cho thấy văn học khu vực đang phát triển trong hệ sinh thái văn chương đa vùng miền và đa văn hóa Việt Nam...

Sài Gòn mùa hè năm 2025

LTH.

Ghi chú:  Những chữ viết xiên là trích nguyên văn từ ngữ của cuốn sách thơ.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm