TIN TỨC

Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-11-02 14:41:16
mail facebook google pos stwis
828 lượt xem

TRẦN NGỌC TUẤN

Trong hành trình kết nối tình yêu thơ ca với bạn đọc, dẫu chưa là hệ thống quan điểm sáng tác, song “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam) đã cho thấy những quan niệm về thi ca của mình.

 

Tác giả Trần Ngọc Tuấn

 

Nhà thơ có nghĩa là người không có tuổi

Xuân Diệu là thi sĩ thứ thiệt (chữ của Nguyễn Tuân) không hề bị tuổi tác làm giảm đi sức sáng tạo của thời tươi trẻ. Đó là lời giải thích cho lý do vì sao khi tuổi đã ngoài tứ tuần, Xuân Diệu vẫn có thể cho ra đời những bài thơ rất sôi nổi, trẻ trung, rạo rực, say đắm. Như bài thơ Biển (1962) với các ngôn từ dào dạt (Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em…), hay như chính Xuân Diệu tự thú “Kẻ đa tình không cần đủ thịt da/ Khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma” (Đa tình). Hàng ngày, nhà thơ Xuân Diệu vẫn mở rộng lòng mình khát khao tìm kiếm tiếng nói đồng điệu của tâm hồn thi ca. Ông không hề khệ nệ, khép kín như nhiều nhà thơ nội cảm, mà thẳng lòng rộng cửa: “Nhà tôi hăm bốn Cột Cờ/ Ai yêu thì đến, ai hững hờ thì qua”.

Nói chuyện thơ, bình thơ trước công chúng, Xuân Diệu ghét những người gọi ông là “bác”, là “chú”… khi tóc ông bạc. Giai thoại kể lại, lần ấy Xuân Diệu bình thơ ở một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Mê Linh, Hà Nội), khi chuẩn bị ra hội trường, một tốp giáo viên vây lấy ông ở hành lang. Một nữ giáo viên hỏi: “Thưa nhà thơ, năm nay nhà thơ bao nhiêu tuổi?”. Xuân Diệu giật mình, tỏ vẻ không vừa lòng: “Trời ơi, ai nỡ đi hỏi tuổi của nhà thơ. Nhà thơ không bao giờ có tuổi!”. Một nam giáo viên khác ngập ngừng: “Thưa bác Xuân Diệu. Bố cháu đọc…”. Xuân Diệu ngắt lời ngay: “Trời đất, gọi nhà thơ bằng bác. Bác gì, bác phó cối à…”. Một giáo viên trẻ khác sau khi đã “rút kinh nghiệm”, từ tốn thưa với Xuân Diệu: “Thưa nhà thơ, nếu nhà thơ không vướng thời thơ lãng mạn thì bây giờ chắc chắn nhà thơ có vị trí số 2 trên thi đàn sau nhà thơ Tố Hữu?”. Xuân Diệu đốp chát ngay: “Cậu dạy môn gì?”. “Dạ cháu dạy môn sinh vật ạ”, giáo viên trẻ trả lời. Xuân Diệu phân trần: “Phải rồi, thảo nào. Thế thì cậu chỉ biết dạy cho học sinh mổ ếch, mổ lươn chứ cậu biết gì về thơ mà bàn. Cậu phải biết rằng không có Xuân Diệu thời Thơ mới thì làm sao có Xuân Diệu bây giờ. Không có thời Thơ mới thì cũng không có cả nhà thơ Tố Hữu nữa, cậu biết không?”. Đã có một thời, người ta chỉ biết thơ ca cách mạng, chỉ quen đề cao những nhà thơ cách mạng, trong đó dĩ nhiên Tố Hữu là số 1. Còn Thơ mới thì bị cho là ủy mị, yếu đuối, tiêu cực… Vì vậy, ai dám cho một cây đại thụ như Tố Hữu lại “đi học” Thơ mới. Nhưng quả thực như lời Xuân Diệu nói trên (không có Thơ mới thì không có thơ Tố Hữu). Sau này GS. Lê Đình Kỵ (Trường ĐH Tổng hợp TP.HCM, nay là Trường ĐH KHXH-NV TP.HCM) đã có một chuyên luận khẳng định điều đó, các bài học trong sách giáo khoa về thơ Tố Hữu cũng có kết luận Tố Hữu kế thừa tinh hoa của Thơ mới.

Chỉ có thơ hay và thơ dở

Một nhà thơ gạo cội, trải qua nhiều giai đoạn sáng tác, vừa thạo cổ vừa thông kim, ấy thế mà khi nghĩ về thơ, Xuân Diệu không bao giờ đặt ra vấn đề về ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới. Theo Xuân Diệu chỉ có thơ hay và thơ dở mà thôi. Trong một buổi gặp gỡ các cây bút sáng tác trẻ tại Hải Phòng, ông đã thẳng thắn bày tỏ quan niệm: “Xét cho cùng thì làm gì có vấn đề mới hay cũ trong thơ, chỉ có hay dở mà thôi. Ai bảo cụ NguyễnTrãi là cũ khi cụ viết “Tuổi già tóc bạc cái râu bạc/ Một ngọn đèn xanh con mắt xanh”. Còn những bài thơ chưa khô mực nhưng dở mèm mà gọi là mới ư? Cái gì hay thì luôn luôn mới, còn cái gì dở bị đào thải ngay khi ra đời thì là cũ chứ gì nữa”.

Xuân Diệu tên thật đầy đủ là Ngô Xuân Diệu (sinh ngày 2-2-1916, mất ngày 18-12-1985), là nhà thơ, nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn, nhà phê bình văn học… Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới đầu thế kỷ XX

Muốn đánh giá thơ mình, hãy nhập vào người khác mà đọc lại thơ mình. Tác giả Đông Trình kể câu chuyện như sau: Có lần tôi và Xuân Diệu đi tàu lửa từ Hà Nội vào Thanh Hóa. Trước mặt tôi và Xuân Diệu đang ngồi có mấy cô sinh viên đang mở thơ Xuân Diệu ra đọc, họ không hề biết Xuân Diệu đang ngồi đối diện phía sau. Họ vô tư bình luận, tranh cãi sôi nổi, và chê những bài thơ tình in ở cuối tập. Một ngày sau, Xuân Diệu khó ngủ, gặp tôi (Đông Trình) ở phòng khách, Xuân Diệu nói: “Này ông, mình rút ruột ra mà làm, ấy thế mà có bài bị người ta “phê”. Nghe người ta “phê” mình nóng mặt, từ lâu nay có ai cả gan phê thơ tình Xuân Diệu”. Đông Trình nói: “Ôi, cái chuyện vớ vẩn trên tàu xe ấy mà… Đến ga rồi, một tiếng còi tàu là xóa hết!”. Xuân Diệu nghiêm túc nói: “Xóa thế nào được. Đêm qua mình nằm đọc lại mấy bài ở cuối tập – bằng cách nhập vai vào cánh sinh viên trên tàu – đúng là mấy bài ấy không hay nhưng mình vẫn chủ quan”.

Được một nhà thơ lớn như Xuân Diệu viết cho lời tựa sách thì quý gì bằng, nhất là các nhà thơ trẻ. Bản thân nhiều người, khi có tên tuổi một chút cũng rất “chịu” viết lời tựa. Còn Xuân Diệu thì ngược lại, ông rất “kỵ” viết “món” này. Tác giả Xuân Hoài kể lại chuyện này như sau: Năm ấy, Tỉnh đoàn thanh niên Hà Tĩnh chuẩn bị xuất bản cuốn “Từ ngã ba này ta hát”, muốn nhờ Xuân Diệu viết cho lời tựa. Sau khi đọc xong bản thảo, Xuân Diệu từ chối. Khi gặp Xuân Hoài ở Hà Nội, Xuân Diệu tâm sự với Xuân Hoài để mong anh em thông cảm: “Mình chỉ đề tựa được cho những tập nào hồng hồng một chút. Từ trước đến nay với tập chung thì mình mới viết giới thiệu cho Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1960 và tập Chùa Hương. Với tập riêng thì mình chỉ mới viết giới thiệu cho hai người Cận và Khoa (Huy Cận và Trần Đăng Khoa)”. Thì ra, theo Xuân Diệu, viết tựa sách là một khâu vô cùng quan trọng, không thể tùy tiện được như nhiều người vẫn làm.

Sức sống của thơ Xuân Diệu

Việt Nam có thơ “lẩy Kiều” thì giới trẻ có lẩy thơ… Xuân Diệu. Những câu thơ được mào đầu kiểu như “Yêu là chết…”, “Người ta khổ…”, hay “Xuân đương tới…” thường được người trẻ sử dụng trong nhiều tình huống, cho thấy sức lan tỏa của thơ Xuân Diệu. Năm 1941, bài thơ Cảm xúc (như một tuyên ngôn về thơ mới: Là thi sĩ nghĩa là ru với gió/ Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây…) của Xuân Diệu ra đời trên báo Ngày nay. Năm 1942, Sóng Hồng (Trường Chinh) có thơ “phản pháo” theo góc nhìn cách mạng: Là thi sĩ nghĩa là cao khúc họa/ Cuộc đấu tranh vĩ đại của hoàn cầu…/ Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền.

Theo N.H, trước đây có một thiếu nữ Pháp mê thơ Xuân Diệu nên thuộc nhiều thơ của ông. Thiếu nữ này còn lẩy thơ Xuân Diệu như người ta lẩy Kiều bằng cách ghép bốn câu thơ trong bốn bài khác nhau thành một bài tứ tuyệt:

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều

Ta cần uống ở suối thương yêu

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Không khóc nhưng mà buồn hiu hiu…

T.N.T

Nguồn: Tạp chí Giáo dục TP.HCM

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm