TIN TỨC

Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-18 11:32:38
mail facebook google pos stwis
697 lượt xem

TRẦN NGỌC TUẤN

Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.

Nhà thơ Nguyễn Bính

Dưới đây là một số giai thoại “vẽ” nên chân dung Nguyễn Bính.

Những “nhân vật” nữ trong thơ Nguyễn Bính

Ai đã đọc thơ Nguyễn Bính thì không thể quên bài thơ Lỡ bước sang ngang được. Và lại càng không thể quên hình tượng nhân vật người chị (lần này chị bước sang ngang) trong bài thơ này. Lý do đơn giản là, thường thì người ta đưa người yêu (em) đi lấy chồng. Còn ở đây Nguyễn Bính xưng là “chị”, lại có tên tuổi hẳn hoi trong nhiều bài thơ Nguyễn Bính đề “Tặng chị Trúc”. Vậy chị Trúc là ai? Liên quan gì đến “thiên tình sử” sang ngang lỡ bước này? Theo tìm hiểu thì chị Trúc có tên thật là Lê N. Th. (tên viết tắt theo tác giả Bùi Hạnh Cẩn, người anh bà con cô cậu và bạn thân của Nguyễn Bính). Chị Lê N. Th. là một phụ nữ đẹp, có tâm hồn thơ mộng. Chị có chồng là ông chủ một hiệu ảnh ở Hà Đông – Hà Nội. Nhưng hôn nhân này đổ vỡ. Chị đi bước nữa với nghệ sĩ Trúc Đường, là anh ruột Nguyễn Bính. Có lẽ Nguyễn Bính gọi chị Trúc là từ tên anh Trúc Đường mà ra. Hai người thuê nhà ở riêng và quyết tâm lấy nhau. Nhưng rồi duyên lại không thành, Nguyễn Bính đã viết: Rồi đêm kia lệ ròng ròng/ Tiễn đưa người ấy sang sông chị về. Tâm hồn Nguyễn Bính như thế đấy, thương chị dâu không thành duyên với anh, mà viết ra bài thơ Lỡ bước sang ngang nức nở. Bài thơ dài đúng 110 câu, bằng với số ngày (110 ngày) mà anh chị mình đã sống gắn bó trong hạnh phúc.

Bài thơ Cô lái đò (được nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc phổ nhạc) cũng là giai thoại có thật về một “bóng hồng” trong thơ Nguyễn Bính. Bài thơ này được Nguyễn Bính viết từ những năm bốn mươi của thế kỷ 20. Tác giả Chu Văn kể lại câu chuyện xúc động này như sau: Cô ta tên là Thoa, đưa đò ngang qua sông Châu thơ mộng. Cô Thoa thường chở nhà thơ qua sông mà không lấy tiền, lại còn đọc thơ của Nguyễn Bính cho khách nghe, có cả những câu thơ mang bóng dáng mình: Xuân đã đem mong nhớ trở về/ Lòng cô gái ở bến sông kia… Sau này, trong một lần qua sông, lúc này Nguyễn Bính đã mất, nhà văn Chu Văn ngậm ngùi báo tin với cô Thoa lái đò: “Bác Bính làm thơ, vẫn hằng ngày đi chợ nhờ cô đưa sang ngang, bác ấy mất rồi cô ạ”. Một tiếng nấc nghẹn, cô Thoa gục mặt trên mái chèo, tiếng lạc đi: “Cháu biết! Giá chết thay được thì cháu tự nguyện chết thay để bác ấy sống, bác ấy làm thơ”. Nói đến đây, nhà văn Chu Văn bàng hoàng “rót” một lời bình: “Chao ôi, ngay cả bạn bè anh Bính, đã mấy ai nghĩ về anh chí tình đến như vậy”.

Và rồi còn nữa, bài thơ Viếng hồn trinh nữ, với những câu thơ đau xé lòng“Có một chiếc xe màu trắng đục/ Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi/ Đem đi một chiếc quan tài trắng/ Và những vòng hoa trắng lạnh người…” là xúc cảm mãnh liệt của “thi sĩ chân quê” với cô gái chết trẻ, đẹp nhất phố Hàng Đào, Hà Nội ngày xưa.

Thiên tuyệt bút “một lời là một vận vào khó nghe”

Nguyễn Bính không chỉ giỏi làm thơ lục bát về “hương đồng gió nội”, mà ông còn có tài dịch thơ Đường rất chuyên nghiệp. Tài dịch thơ Đường của Nguyễn Bính thể hiện ở chỗ ông chuyển những bài thơ Đường theo thể ngũ ngôn, thất ngôn sang thể thơ lục bát – vốn rất mộc mạc, khó dung tải được cái âm hưởng của Đường thi. Không những thế, Nguyễn Bính còn có tài dịch thơ Đường rất nhanh. Giai thoại kể, hôm ấy ở tòa soạn báo Tiểu thuyết thứ năm, mọi người (gồm nhà thơ, dịch giả, nhà lý luận…) bàn tán về việc dịch thơ chữ Hán. Chủ bút Lê Tràng Kiều bèn thử tài dịch thơ Đường của mọi người với bài thơ Đường: Hoàng mai thời tiết gia gia vũ/Phương thảo trì đường cứ cứ oa/Hữu ước bất lai hoa dạ bán/Nhàn soa kỳ tử lạc đăng hoa. Ai nấy đều cầm bút xóa xóa gạch gạch bài dịch của mình. Nguyễn Bính chẳng giấy bút gì cả, đọc liền một mạch bài thơ dịch của mình: Ao hồ tiếng ếch gần xa/Cỏ thơm ngào ngạt, ngoài nhà mưa rơi/Nửa đêm cái hẹn sai rồi/Quân cờ gõ nhảm làm rơi hoa đèn. Dịch thơ mà lại sáng tạo được như hai câu sau thì thật là tuyệt bút!

Trong quá trình hiện đại hóa thi ca Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đã xuất hiện cuộc tranh luận gay gắt giữa hai quan điểm: Một bên chủ trương cách tân triệt để để làm cho thơ mới lạ. Trường phái này có các cây bút chủ chốt như Phan Khôi, Xuân Diệu, Nguyễn Vỹ… với các bài thơ như Tình già, Cây đàn muôn điệu. Và một bên chủ trương giữ lấy cốt cách, cái hồn dân tộc cho thơ, trường phái này tập hợp các nhà thơ dân dã như Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ. Nguyễn Bính cũng âm thầm góp tiếng nói tranh luận của mình, không phải đao to búa lớn, mà bằng một bài thơ lục bát nhẹ nhàng Chân quê. Lúc ấy Nguyễn Bính mới 19, 20 tuổi. Một quan điểm rõ ràng, dứt khoát: Hoa chanh nở giữa vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê… Quan điểm sáng tác này theo suốt cuộc đời thơ tác giả và giúp Nguyễn Bính định hình một phong cách sáng tác độc đáo trong phong trào Thơ mới 1932-1945.

Nguyễn Bính (tên thật là Nguyễn Trọng Bính) sinh năm 1918 và mất năm 1966. Ông giã từ nghiệp thơ ở cõi trần sau một sự kiện mà nhiều người cho là có một sự “linh ứng” giữa ông và đại thi hào Nguyễn Du – Truyện Kiều. Nhà văn Chu Văn kể lại giai thoại này: Cuối năm 1965, nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du, mọi người đều chuẩn bị bài viết cho số báo Tết năm ấy. Nguyễn Bính vốn coi cụ Nguyễn Tiên Điền như là vị tổ sư nên không thể không viết về cụ. Chỉ trong một đêm, Nguyễn Bính âm thầm, lặng lẽ viết một bài thơ theo hình thức “tập Kiều” (lấy một câu Kiều và sáng tạo một câu của mình). Khi đưa bài đến tòa soạn, mọi người khen hay nhưng đùa với Nguyễn Bính về thân phận, vì ông đã “tập Kiều” câu thơ “Một lời là một vận vào khó nghe”. Nguyễn Bính chỉ cười và cho là các bạn văn của mình mê tín. Đúng ba mươi Tết năm ấy, Nguyễn Bính ra đi vĩnh viễn.

Tác giả Trần Ngọc Tuấn

Cảm kích trước chân tài, người viết bài này xin viếng tặng ông “nhà thơ chân quê” Nguyễn Bính mấy dòng thơ lục bát để tỏ lòng mến mộ:

Thôn Đoài còn nhớ thôn Đông

Cây đa bến nước còn mong người về

Cánh cò trắng mượt bờ đê

Van em nỡ phụ lời thề cỏ may

Sang ngang một chuyến đò đầy

Xót xa bát đũa tháng ngày mồ côi

Trò chơi tiền lá mồng tơi

Sánh so sao được tiền đời hỡi em

Khóc cười đất Huế mưa đêm

Trời Nam hành khúc một miền xanh mơ

Nếp nhà còn một vườn thơ

Hoa chanh vẫn nở giữa bờ chân quê!

Nguồn: Tạp chí Giáo dục TP.HCM

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm