TIN TỨC

Đâu là sức mạnh của nghệ thuật?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-15 15:59:12
mail facebook google pos stwis
1413 lượt xem

NGUYỄN TRƯỜNG
(Đọc tập truyện ngắn “Bước không qua số phận” của Đỗ Duy Ngọc - Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2022)

Tôi quen anh Đỗ Duy Ngọc cũng đã trên ba mươi năm, biết anh là họa sỹ có tài, có tranh đẹp, là “Vua bìa sách” phía Nam; mãi gần đây đọc facebook thấy anh than phiền về một người “đạo” truyện ngắn “ Có một người tên V. Huy” của anh, làm tôi tò mò tìm đọc: Truyện  khá ấn tượng, thảo nào tay thanh niên nọ không cầm lòng đặng. Từ đó tôi tìm đọc truyện của Đỗ Duy Ngọc. Đặc biệt  khi anh gửi cho tôi tập truyện ngắn “Bước không qua số phận” dày gần 300 trang, với 29 truyện, làm tôi vô cùng ngạc nhiên và thích thú.

Đỗ Duy Ngọc là họa sỹ, từng du học bên Pháp, lấy vợ Tây nên “vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra”. Nghề chính là hội họa, còn viết văn thì theo kiểu “tài tử” thích thì làm nên văn anh hồn nhiên, chủ yếu viết về những trải nghiệm trong đời, đắng cay, ngọt bùi... có cả. Nhưng chính cái tự nhiên như nhiên ấy lại là thế mạnh trong truyện của anh. Phần lớn truyện ngắn của Đỗ Duy Ngọc kể ở ngôi thứ nhất, tác giả xưng tôi. Truyện chủ yếu là viết về số phận của bạn bè từ ngày bé thơ đến kết thúc cuộc đời. Những con người đi qua thời cuộc, chịu tác động của thời cuộc đầy éo le, đầy bão tố, và kết thúc trong bi kịch đẫm nước mắt.

Truyện “Bước không qua số phận” là truyện vừa thì đúng hơn, gồm 9 chương, dày đến hơn 50 trang in. Tác giả xưng tôi, kể về người bạn tên Nhân, một cậu học trò có nhiều tài: Học giỏi, đá banh siêu, đánh cờ tướng cừ, lại võ nghệ thâm hậu. Người ta thường gọi là Siêu Nhân. Người giỏi như thế lại là con của quan Đốc học khá giả, tưởng tương lai rộng mở. Nhưng thầy tướng số phán: “Cậu Nhân tướng tốt, thông minh hơn người, nhưng ánh mắt lộ hung quang, tôi e cậu ấy không học được chữ nhẫn, sẽ phải phạm tội sát nhân, hậu vận xấu lắm”. Quả vậy, được du học ở Paris nước Pháp, Nhân trở thành lãnh tụ sinh viên ủng hộ chế độ Việt Nam Công hòa, mâu thuẫn với Thành, cậu sinh viên phe thiên tả ủng hộ biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam. Trong một trận cãi nhau, Nhân đã bay đến đá gãy cổ Thành. Thành chết ngay lập tức. Nhân bị bắt, rồi bị dẫn độ về Việt Nam để xét xử. Tuy vậy Nhân vẫn là người có bản chất lương thiện. Nhân đáu đớn chứng kiến người vợ tự tử vì cùng đường tủi nhục và khốn khó, trong đó có lỗi của anh vì quá quẫn bách đã bán đi chiếc đàn Piano vốn là vật yêu quý cả đời của vợ, thậm chí cô đã phải đổi  bằng trinh tiết để giữ nó. Chiếc đàn mà trong lần xuất ngoại đi du học, Nhân đã ao ước sẽ kiếm tiền mua cho nàng loại tốt nhất, đắt nhất thế giới. Cuối cùng Nhân cùng có tiền mua được cây đàn mơ ước đem ra mộ vợ, anh đã khóc suốt đêm bên nàng rồi đốt cây đàn để tặng nàng dưới suối vàng. Hình ảnh “Nhân đã bay từ chiếc xe ba gác đẩy hai mẹ  con ngả sấp phía bên kia đường và nhân kẹt đôi chân trên đường rầy, những bánh xe lửa nghiến qua nét bét” thể hiện chất Người còn sót lại trong Nhân, dù anh đã phải trải qua biết bao biến cố đau thương. Cuộc đời Nhân đã xảy ra đúng như số mệnh đã định trước.

Truyện “Có một người tên V. Huy”, “Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh”, “Alain De Lai”, “Ba thằng bạn”, “Một chuyện xóm cụt”... Đều có chung mô típ những người thân, những người bạn của tác giả vốn nghèo khó, phải trải qua biết bao bi kịch của cuộc đời, nhưng dầu vậy họ vẫn giữ được thiện lương, biết sống và hy sinh vì người khác, những nét đẹp trong tính cách điển hình người Nam bộ.

Những truyện nói trên đều được viết bằng thi pháp hiện thực nghiêm ngặt. Tuy vậy trong tập truyện ta cũng bắt gặp một vài truyện ảnh hưởng của dòng văn học hiện thực huyền ảo, đó là truyện “Người đi trên trời” và “Ảo ảnh”. Truyện “ Ảo ảnh”, kể về nhân vật tên Hân, vào thời  bao cấp, đất nước còn chìm trong nạn thiếu đói: “Hân đói, cả xã hội nghèo, thiếu ăn, ai cũng gầy với đôi mắt thất thần và cái bụng lép kẹp, chẳng ai giúp được ai”. Bữa đó Hân đói lắm rồi, từ sáng đến chiều không có tí gì vào bụng. Hân trông thấy bà cụ bán bánh ít nhân đậu mà nhiều lần anh từng mua, giá như có được cái bánh ấy thì... Nhưng bây giờ Hân không còn tiền, bà cụ chỉ có chục cái bánh bày trên cái thúng đã cũ như con người cụ. Bà cụ nghèo, vốn liếng chẳng bao nhiêu. Ý không định nhưng chân Hân cứ bước đến bên thúng bánh của cụ. Cuối cùng Hân cũng thốt nên lời: “Cụ ơi hôm nay cháu không còn tiền, cụ cho cháu thiếu được không”. Bà cụ ngần ngừ chép miệng: “Khổ thế cơ à! Ối giời, thời thế gì mà ai cũng khổ thế này? Khổ đã khổ rồi, cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gửi cho tôi cũng được, trông cậu xanh quá, chắc đói lắm rồi hử?”. Hân ăn hai cái bánh, tối đó bụng mới đỡ réo sôi, đêm mới ngủ được. Hôm sau anh đi Biên Hòa mấy ngày, trở về Hân không thấy bà cụ ngồi ở góc đường đó nữa. Bữa nhớ bữa quên, anh vẫn chưa trả được tiền cho cụ. Rồi anh vượt biên, sang Mỹ, làm ăn khá dần, trong một lần về Sài Gòn anh đi tìm cụ bán bánh năm xưa, tìm khăp khắp nơi, hỏi thăm rất nhiều người, vẫn không ai biết bà cụ, mà cũng đã hơn hai mươi năm rồi còn gì. Một đêm anh nằm mơ thấy có anh xe ôm gần ngã tư nơi năm xưa bà cụ ngồi bán bánh, biết bà cụ. Anh lại ra ngã tư tìm và đúng như giấc mơ, anh xe ôm là con rể cụ. Anh chở Hân về nhà, vật đập vào mắt Hân là trên bàn thờ di ảnh của cụ. Anh vét hết số tiền còn lại để lên bàn thờ cụ mà khấn: “Món nợ này con suốt đời nợ cụ, mong cụ siêu thoát mà tha lỗi cho con”. Khi trở ra, bỗng nhìn thấy cụ đang ngồi bên đường như năm xưa vẫn ngồi, anh vội băng qua đường tiến về phía cụ thì bị một chiếc xe bus băng ngang che tầm mắt. Khi anh bước qua bên kia đường thì không còn thấy bà cụ nữa. Truyện nhuốm sương khói huyền ảo nhưng có lý. Anh sinh viên Hân và bà cụ đều rơi vào cảnh huống quá nghèo khổ, nhưng họ không đánh mất lương tâm và lòng nhân ái. Chỉ hai cái bánh như bữa cơm phiếu mẫu, nhưng anh sinh viên nghèo nhớ mãi và lúc đã có tiền cũng không còn cách nào để trả ơn. Truyện làm ta xúc động.

Truyện “Người đi trên trời” lại là tình huống khác. Nhân vật chính không biết cha mẹ là ai, lớn lên trong cô nhi viện, cũng được học hành tử tế, ra trường làm giáo viên. Nhưng cuộc đời hắn gặp toàn chuyện xui xẻo: Hắn bị mất việc, bị mất xe máy, vợ thì ngoại tình mang hết của cải theo trai. Hắn bị đẩy vào bước đường cùng, toan tự tử : “Hắn đứng trên thềm balcon rồi nhảy xuống trần gian lộn xộn phía dưới. Ra khỏi khoảng không, hai chân hắn quơ quào trong không khí như bản năng sinh tồn và rồi hắn cảm thấy như đang đi trên mặt đất, hai chân chạm vào không khí nhưng lại vững chãi như đứng trên nền nhà. Hắn bước đi, những bước chân chẳng khác chi đang đi trên đường. Hắn ý thức rằng điều huyền ảo đó chính là sự thật. Hắn đã đạt được giấc mơ của quá khứ”. Từ đây hắn “Xa cách mặt đất đầy đầy khói bụi, là thoát cảnh chen lấn của trần gian, là một mình một cõi khi mọi người phải luồn lách mà sống”. Điều kỳ diệu đến với hắn chỉ có thế, hắn không những không mang đến điều có ích cho hắn, cho xã hội mà còn chuốc lấy đầy những phiền toái: Hắn phải trốn tránh các nhà báo, các máy quay phim rình hắn để chộp nhứng pô ảnh, những thước phim nhằm thỏa mãn tính hiếu kỳ của người đời. Thậm chí hắn bị bắt vào đồn công an vì nghi ngờ có âm mưu gì đó. Cuối cùng hắn làm một cú nhảy vào không khí, nhưng điều kỳ diệu đã không xảy ra, hắn bị ngã gãy chân, phải nằm bệnh viện, phải ngồi xe lăn, hết còn đi trên trời, thậm chí đi dưới đất cũng không xong. Truyện như ngầm triết lý, người ta với ước mơ cỏn con thì dù có điều kỳ diệu đưa đến cũng vẫn là người vô tích sự.

Đỗ Duy Ngọc cũng có vài truyện ngắn luận đề. Đó là truyện “Con nhồng” và “Chuyện chú chim họa my còi cọc”. Truyện ngắn Con nhồng, kể về một người tuổi cao sang định cư tại Pháp, nhớ quê hương, thèm nghe tiếng Việt nên tham gia vào cộng đồng người Việt. Nhưng “Mấy tổ chức này lung tung quá, có nhiều khuynh hướng chính trị quá, lại cứ cãi nhau như mỗ bò, tranh giành danh hão... nên anh rút lui dần”. Anh quen một bà cụ có con nhồng biết nói tiếng Việt, dù chỉ một câu “Trời ơi”, thì vẫn là thứ tiếng anh cần nghe. Thấy anh thích, bà cụ tặng lại anh con chim. Anh hàng ngày chăm sóc cho nó, dạy nó nói thêm một vài tiếng Việt. Trong một lần phải đi qua Mỹ một tháng, anh nhờ người  hàng xóm chăm sóc con nhồng. Khi về thì con chim đã bị người Mỹ dạy nó nói “Oh my god” thay cho tiếng “Trời ơi”, “Hello” thay cho “ Xin chào”. “Anh điên tiết nhìn hắn với cặp mắt tóe lửa. Tao chỉ muốn nó nói tiếng Việt, mày hiểu chưa, tao không muốn nó nói tiếng Mỹ... Anh chỉ cần nó nói tiếng dân tộc anh, quê hương xa tít của anh để anh thấy gần gũi với quê nhà...Lão thủy thủ già không hiểu điều đó, lão đâu có ý niệm quê hương, lão buồn ói khi nói về đất nước của lão, không có chút đồng cảm trong chuyện này thì làm sao để giải thích.” Lão cho chim ăn hamburger có thịt, chim khoái nghe lời lão, lão cho chim uống rượu Whisky. Anh chỉ cho chim uống nước lã, ăn bánh Croissant. Bây giờ nó chào Hello khi muốn ăn, nó kêu Whisky khi muốn uống nên anh không làm sao dạy nó nói “Trời ơi” được nữa. Bất lực, anh đành thả con chim “ Trời ơi” về trời, bởi nó đã quên tiếng Việt rồi. Câu chuyện hẳn là không phải chuyện chim, một ẩn dụ thú vị về con người.

“Chuyện chú chim họa my còi cọc” thì có vẻ ngược với suy nghĩ thông thường của nhiều người. Linh nhận về nuôi con chim họa my mới ra ràng, yếu lẩy bẩy, một phần sống, mười phần chết,  anh dùng nhiều công sức vào chăm sóc cho chim, dần dần chú chim cũng sống sót, lớn lên, nhưng bởi xuất phát điểm quá nhỏ bé, còi cọc nên con chim không to như những chú họa my thông thường. Bù lại chú hót rất hay. Linh yêu chú lắm, anh càng dành nhiều thời gian chăm sóc cho chim. Nhưng một bữa chị Hai của Linh đến chơi, thấy chú chim bị giam trong lồng tội nghiệp, chị khuyên Linh nên giải phóng cho chim được tự do. Chị Hai là người tu đạo, rất có lòng từ bi. Nhưng Linh không chịu, bởi anh gắn bó với chim như người bạn nhiều thời gian rồi. Anh cũng thích tiếng hót của chim. Con chim cũng rất quý mến Linh. Một lần Linh đi công tác về thì không thấy chim trong lồng nữa, chị Hai đã thả chim ra. Tội nghiệp con chim, quen được chăm sóc đầy đủ từ lúc mới ra ràng, cho nó ra tự nhiên thì làm sao sống được. Con chim lại tìm về nhà, đập cánh bên ngoài cửa sổ đã đóng chặt trong đêm mưa gió. Rồi Linh tìm thấy xác con chim ở trong vườn. “Trong chúng ta đôi lúc cứ nghĩ làm việc thiện, thật ra đang làm việc ác, mỗi người, mỗi sinh vật đều có cách sống riêng của nó. Cách sống đó tạo ra từ hoàn cảnh, từ thói quen. Anh bắt người ta ra khỏi thói quen đôi lúc anh trở thành kẻ sát nhân”. Tưởng không cần phải bàn thêm vì câu chuyện của tác giả đã thể hiện hết những gì cần nói rồi.

Trong tập truyện, thỉnh thoảng gặp nhưng “cặp đôi hoàn hảo” như thế. Đỗ Duy Ngọc thường dùng phương pháp kể chuyện hơn là dựng truyện, nhưng vì sao truyện của anh hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối, từ truyện này sang truyện kia? Phải chăng bởi tại anh có vốn sống vô cùng phong phú nên đan truyện bằng những sợi dây lấp lánh sắc màu của chi tiết. Như trong truyện “Bước không qua số phận” tác giả kể về Nhân, nhưng chi tiết rất thật, rất độc đáo: “Học chung lớp với Nhân, càng ngày tôi càng thấy hắn giỏi, nhất là những môn toán, lý, hóa. Thầy dạy môn toán tên Thanh, thầy dạy rất hay, học trò rất mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt, tóc chải dầu bóng lưỡng, cách đi giọng nói rất điệu. Thầy hay cho làm toán chạy, tức là thầy đọc đề xong, trong năm hoặc bảy phút sau thầy chỉ nhận mười bài giải nộp nhanh nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm tối đa, còn giải sai thì khỏi có điểm. Nhân luôn luôn là người giải bài nhanh và đúng nhất. Khi nào hắn nộp trễ hơn một chút thì có nghĩa hắn giải bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên bảng giải toán hình học, hắn vẽ hình bằng tay trái còn tay phải ghi lời giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp thầy nào thầy Thanh cũng ca ngợi Nhân. Thầy còn bảo với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần ghi chép, muốn làm gì thì làm. Các thầy dạy môn lý, hóa cũng bảo hắn thế.”

Còn về truyện “Có một người tên V. Huy”, phải có kiến thức khá sâu rộng về ngôn ngữ lẫn ngoại ngữ mới tả được nhân vật của mình: “Hắn là một thằng thông minh, rất thông minh. Và cũng uyên bác, rất uyên bác. Tôi là người rất ngạo mạn, ít khen ai và cũng ít nể ai, luôn khinh khi những thằng tiến sĩ dỏm nhiều như quân Nguyên chạy đầy đường. Nhưng gặp hắn, quen hắn, biết hắn thì tôi phải khen ngợi hắn thật lòng. Hắn nói tiếng Anh như dân xuất thân từ Oxford, đúng giọng và ngữ điệu. Hắn vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra. Hắn nói tiếng Ý như mưa rào và tiếng Nga thì thôi rồi, nghe không khác gì Putin. Hắn cũng giỏi tiếng Hán, viết thư pháp như múa, đặc biệt là chữ thảo, đọc toàn sách cổ văn, đọc tiếng Đức ầm ầm như bão tố. Ngoài ra hắn còn giỏi tiếng Bồ Đào Nha, đọc kinh Phật bằng tiếng Pali và nói thông thuộc tiếng Khmer. Hay nhất là dù hắn có mười mấy năm ở nước ngoài, có bằng Tiến sĩ ở Nga nhưng lại nói tiếng Việt rất chuẩn, tròn vành rõ chữ và dùng từ thì không chê vào đâu được. Nói một cách khách quan, xét về mặt ngôn ngữ, hắn là thằng trùm thiên hạ.”

Tại sao tác giả lại đặt tên cho thiên truyện dài nhất, hay nhất cũng là tên cho cả tập: “Bước không qua số phận”?  Có vẻ như Đỗ Duy Ngọc chịu ảnh hưởng của thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật? Nhưng khi đọc truyện ta thấy không phải vậy, hình như ông muốn mô tả về thời cuộc mà mỗi con người phải trải qua, đúng như nhà thơ Éptusencô đã nói “Mỗi số phận chứa một phần lịch sử”. Bởi vậy ta không ngạc nhiên khi hầu hết các truyện của Đỗ Duy Ngọc đều trải qua hai thời kỳ, trước và sau ngày đất nước thống nhất. Con người sống qua hai thời kỳ, hai chế độ đó số phận ra sao... chính là nội dung của cuốn sách muốn gửi gắm. Bởi muốn truyền tải được tối đa những tư tưởng, Đỗ Duy Ngọc đã chọn cách viết chân thật, trước hết thuyết phục độc giả tin vào điều mình kể, khi tin người ta dễ đồng cảm với tác giả, qua đó lay động được trái tim người đọc. Đó cũng chính là sức mạnh của nghệ thuật.

(Bài đăng trên Văn nghệ số 29 ra ngày 16/7/2022)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm
Nhà thơ Trần Đôn và “hành trình” Rong chơi 2
Ở tuổi U80, nhà thơ Trần Đôn vẫn dồi dào sức sáng tạo, vừa hoàn thành tập thơ Rong chơi 2 – một “hành trình” thi ca “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” đầy chiêm nghiệm.
Xem thêm
Nguyễn Văn Mạnh - Thơ là những trang đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa đã khắc họa chân dung một hồn thơ đa diện, nơi mỗi vần thơ đều thấm đẫm trải nghiệm, nỗi đau, niềm kiêu hãnh và tình yêu tha thiết với con người, đất nước.
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức – Tiếng lòng tha thiết của một đời trải nghiệm
Hai bài cảm nhận của nhà thơ Tố Hoài và nhà thơ Phạm Đình Phú
Xem thêm
Thêm một Nguyễn Trường viết phê bình văn học
Bài đăng Thờ báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức - Bản tình ca viết về tình yêu “một thời hoa lửa”
Cảm nhận về tập thơ Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam
Xem thêm
Sắc thái riêng từ “Khoảng trời xanh ký ức”
Sáng 30/5/2025, Câu lạc bộ Thơ Phương Nam đã tổ chức buổi ra mắt tập thơ thứ bảy mang tên Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một dấu ấn thơ ca thấm đẫm trải nghiệm sống, chan chứa hoài niệm và thấm đượm tình người.
Xem thêm
Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai
Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập Đồng (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.
Xem thêm
Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài
Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.
Xem thêm
Cái tôi trữ tình sâu lắng trong Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền
Đọc tập thơ Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2025
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều Tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Lan tỏa giá trị văn hóa: Sức mạnh của đội ngũ văn nghệ TP.HCM
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Phật giáo hộ quốc dưới góc nhìn tiểu thuyết vương triều Tiền Lý
Sớm mai, sương bạc vương trên cánh sen tĩnh mặc, hồ nước phẳng lặng phản chiếu bầu trời vô tận. Tiếng chuông chùa ngân dài trong làn gió sớm, tan vào không gian như những vòng sóng lan tỏa, vọng về từ ngàn xưa lời kinh Bát Nhã
Xem thêm