TIN TỨC

Đâu là sức mạnh của nghệ thuật?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-15 15:59:12
mail facebook google pos stwis
1576 lượt xem

NGUYỄN TRƯỜNG
(Đọc tập truyện ngắn “Bước không qua số phận” của Đỗ Duy Ngọc - Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2022)

Tôi quen anh Đỗ Duy Ngọc cũng đã trên ba mươi năm, biết anh là họa sỹ có tài, có tranh đẹp, là “Vua bìa sách” phía Nam; mãi gần đây đọc facebook thấy anh than phiền về một người “đạo” truyện ngắn “ Có một người tên V. Huy” của anh, làm tôi tò mò tìm đọc: Truyện  khá ấn tượng, thảo nào tay thanh niên nọ không cầm lòng đặng. Từ đó tôi tìm đọc truyện của Đỗ Duy Ngọc. Đặc biệt  khi anh gửi cho tôi tập truyện ngắn “Bước không qua số phận” dày gần 300 trang, với 29 truyện, làm tôi vô cùng ngạc nhiên và thích thú.

Đỗ Duy Ngọc là họa sỹ, từng du học bên Pháp, lấy vợ Tây nên “vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra”. Nghề chính là hội họa, còn viết văn thì theo kiểu “tài tử” thích thì làm nên văn anh hồn nhiên, chủ yếu viết về những trải nghiệm trong đời, đắng cay, ngọt bùi... có cả. Nhưng chính cái tự nhiên như nhiên ấy lại là thế mạnh trong truyện của anh. Phần lớn truyện ngắn của Đỗ Duy Ngọc kể ở ngôi thứ nhất, tác giả xưng tôi. Truyện chủ yếu là viết về số phận của bạn bè từ ngày bé thơ đến kết thúc cuộc đời. Những con người đi qua thời cuộc, chịu tác động của thời cuộc đầy éo le, đầy bão tố, và kết thúc trong bi kịch đẫm nước mắt.

Truyện “Bước không qua số phận” là truyện vừa thì đúng hơn, gồm 9 chương, dày đến hơn 50 trang in. Tác giả xưng tôi, kể về người bạn tên Nhân, một cậu học trò có nhiều tài: Học giỏi, đá banh siêu, đánh cờ tướng cừ, lại võ nghệ thâm hậu. Người ta thường gọi là Siêu Nhân. Người giỏi như thế lại là con của quan Đốc học khá giả, tưởng tương lai rộng mở. Nhưng thầy tướng số phán: “Cậu Nhân tướng tốt, thông minh hơn người, nhưng ánh mắt lộ hung quang, tôi e cậu ấy không học được chữ nhẫn, sẽ phải phạm tội sát nhân, hậu vận xấu lắm”. Quả vậy, được du học ở Paris nước Pháp, Nhân trở thành lãnh tụ sinh viên ủng hộ chế độ Việt Nam Công hòa, mâu thuẫn với Thành, cậu sinh viên phe thiên tả ủng hộ biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam. Trong một trận cãi nhau, Nhân đã bay đến đá gãy cổ Thành. Thành chết ngay lập tức. Nhân bị bắt, rồi bị dẫn độ về Việt Nam để xét xử. Tuy vậy Nhân vẫn là người có bản chất lương thiện. Nhân đáu đớn chứng kiến người vợ tự tử vì cùng đường tủi nhục và khốn khó, trong đó có lỗi của anh vì quá quẫn bách đã bán đi chiếc đàn Piano vốn là vật yêu quý cả đời của vợ, thậm chí cô đã phải đổi  bằng trinh tiết để giữ nó. Chiếc đàn mà trong lần xuất ngoại đi du học, Nhân đã ao ước sẽ kiếm tiền mua cho nàng loại tốt nhất, đắt nhất thế giới. Cuối cùng Nhân cùng có tiền mua được cây đàn mơ ước đem ra mộ vợ, anh đã khóc suốt đêm bên nàng rồi đốt cây đàn để tặng nàng dưới suối vàng. Hình ảnh “Nhân đã bay từ chiếc xe ba gác đẩy hai mẹ  con ngả sấp phía bên kia đường và nhân kẹt đôi chân trên đường rầy, những bánh xe lửa nghiến qua nét bét” thể hiện chất Người còn sót lại trong Nhân, dù anh đã phải trải qua biết bao biến cố đau thương. Cuộc đời Nhân đã xảy ra đúng như số mệnh đã định trước.

Truyện “Có một người tên V. Huy”, “Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh”, “Alain De Lai”, “Ba thằng bạn”, “Một chuyện xóm cụt”... Đều có chung mô típ những người thân, những người bạn của tác giả vốn nghèo khó, phải trải qua biết bao bi kịch của cuộc đời, nhưng dầu vậy họ vẫn giữ được thiện lương, biết sống và hy sinh vì người khác, những nét đẹp trong tính cách điển hình người Nam bộ.

Những truyện nói trên đều được viết bằng thi pháp hiện thực nghiêm ngặt. Tuy vậy trong tập truyện ta cũng bắt gặp một vài truyện ảnh hưởng của dòng văn học hiện thực huyền ảo, đó là truyện “Người đi trên trời” và “Ảo ảnh”. Truyện “ Ảo ảnh”, kể về nhân vật tên Hân, vào thời  bao cấp, đất nước còn chìm trong nạn thiếu đói: “Hân đói, cả xã hội nghèo, thiếu ăn, ai cũng gầy với đôi mắt thất thần và cái bụng lép kẹp, chẳng ai giúp được ai”. Bữa đó Hân đói lắm rồi, từ sáng đến chiều không có tí gì vào bụng. Hân trông thấy bà cụ bán bánh ít nhân đậu mà nhiều lần anh từng mua, giá như có được cái bánh ấy thì... Nhưng bây giờ Hân không còn tiền, bà cụ chỉ có chục cái bánh bày trên cái thúng đã cũ như con người cụ. Bà cụ nghèo, vốn liếng chẳng bao nhiêu. Ý không định nhưng chân Hân cứ bước đến bên thúng bánh của cụ. Cuối cùng Hân cũng thốt nên lời: “Cụ ơi hôm nay cháu không còn tiền, cụ cho cháu thiếu được không”. Bà cụ ngần ngừ chép miệng: “Khổ thế cơ à! Ối giời, thời thế gì mà ai cũng khổ thế này? Khổ đã khổ rồi, cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gửi cho tôi cũng được, trông cậu xanh quá, chắc đói lắm rồi hử?”. Hân ăn hai cái bánh, tối đó bụng mới đỡ réo sôi, đêm mới ngủ được. Hôm sau anh đi Biên Hòa mấy ngày, trở về Hân không thấy bà cụ ngồi ở góc đường đó nữa. Bữa nhớ bữa quên, anh vẫn chưa trả được tiền cho cụ. Rồi anh vượt biên, sang Mỹ, làm ăn khá dần, trong một lần về Sài Gòn anh đi tìm cụ bán bánh năm xưa, tìm khăp khắp nơi, hỏi thăm rất nhiều người, vẫn không ai biết bà cụ, mà cũng đã hơn hai mươi năm rồi còn gì. Một đêm anh nằm mơ thấy có anh xe ôm gần ngã tư nơi năm xưa bà cụ ngồi bán bánh, biết bà cụ. Anh lại ra ngã tư tìm và đúng như giấc mơ, anh xe ôm là con rể cụ. Anh chở Hân về nhà, vật đập vào mắt Hân là trên bàn thờ di ảnh của cụ. Anh vét hết số tiền còn lại để lên bàn thờ cụ mà khấn: “Món nợ này con suốt đời nợ cụ, mong cụ siêu thoát mà tha lỗi cho con”. Khi trở ra, bỗng nhìn thấy cụ đang ngồi bên đường như năm xưa vẫn ngồi, anh vội băng qua đường tiến về phía cụ thì bị một chiếc xe bus băng ngang che tầm mắt. Khi anh bước qua bên kia đường thì không còn thấy bà cụ nữa. Truyện nhuốm sương khói huyền ảo nhưng có lý. Anh sinh viên Hân và bà cụ đều rơi vào cảnh huống quá nghèo khổ, nhưng họ không đánh mất lương tâm và lòng nhân ái. Chỉ hai cái bánh như bữa cơm phiếu mẫu, nhưng anh sinh viên nghèo nhớ mãi và lúc đã có tiền cũng không còn cách nào để trả ơn. Truyện làm ta xúc động.

Truyện “Người đi trên trời” lại là tình huống khác. Nhân vật chính không biết cha mẹ là ai, lớn lên trong cô nhi viện, cũng được học hành tử tế, ra trường làm giáo viên. Nhưng cuộc đời hắn gặp toàn chuyện xui xẻo: Hắn bị mất việc, bị mất xe máy, vợ thì ngoại tình mang hết của cải theo trai. Hắn bị đẩy vào bước đường cùng, toan tự tử : “Hắn đứng trên thềm balcon rồi nhảy xuống trần gian lộn xộn phía dưới. Ra khỏi khoảng không, hai chân hắn quơ quào trong không khí như bản năng sinh tồn và rồi hắn cảm thấy như đang đi trên mặt đất, hai chân chạm vào không khí nhưng lại vững chãi như đứng trên nền nhà. Hắn bước đi, những bước chân chẳng khác chi đang đi trên đường. Hắn ý thức rằng điều huyền ảo đó chính là sự thật. Hắn đã đạt được giấc mơ của quá khứ”. Từ đây hắn “Xa cách mặt đất đầy đầy khói bụi, là thoát cảnh chen lấn của trần gian, là một mình một cõi khi mọi người phải luồn lách mà sống”. Điều kỳ diệu đến với hắn chỉ có thế, hắn không những không mang đến điều có ích cho hắn, cho xã hội mà còn chuốc lấy đầy những phiền toái: Hắn phải trốn tránh các nhà báo, các máy quay phim rình hắn để chộp nhứng pô ảnh, những thước phim nhằm thỏa mãn tính hiếu kỳ của người đời. Thậm chí hắn bị bắt vào đồn công an vì nghi ngờ có âm mưu gì đó. Cuối cùng hắn làm một cú nhảy vào không khí, nhưng điều kỳ diệu đã không xảy ra, hắn bị ngã gãy chân, phải nằm bệnh viện, phải ngồi xe lăn, hết còn đi trên trời, thậm chí đi dưới đất cũng không xong. Truyện như ngầm triết lý, người ta với ước mơ cỏn con thì dù có điều kỳ diệu đưa đến cũng vẫn là người vô tích sự.

Đỗ Duy Ngọc cũng có vài truyện ngắn luận đề. Đó là truyện “Con nhồng” và “Chuyện chú chim họa my còi cọc”. Truyện ngắn Con nhồng, kể về một người tuổi cao sang định cư tại Pháp, nhớ quê hương, thèm nghe tiếng Việt nên tham gia vào cộng đồng người Việt. Nhưng “Mấy tổ chức này lung tung quá, có nhiều khuynh hướng chính trị quá, lại cứ cãi nhau như mỗ bò, tranh giành danh hão... nên anh rút lui dần”. Anh quen một bà cụ có con nhồng biết nói tiếng Việt, dù chỉ một câu “Trời ơi”, thì vẫn là thứ tiếng anh cần nghe. Thấy anh thích, bà cụ tặng lại anh con chim. Anh hàng ngày chăm sóc cho nó, dạy nó nói thêm một vài tiếng Việt. Trong một lần phải đi qua Mỹ một tháng, anh nhờ người  hàng xóm chăm sóc con nhồng. Khi về thì con chim đã bị người Mỹ dạy nó nói “Oh my god” thay cho tiếng “Trời ơi”, “Hello” thay cho “ Xin chào”. “Anh điên tiết nhìn hắn với cặp mắt tóe lửa. Tao chỉ muốn nó nói tiếng Việt, mày hiểu chưa, tao không muốn nó nói tiếng Mỹ... Anh chỉ cần nó nói tiếng dân tộc anh, quê hương xa tít của anh để anh thấy gần gũi với quê nhà...Lão thủy thủ già không hiểu điều đó, lão đâu có ý niệm quê hương, lão buồn ói khi nói về đất nước của lão, không có chút đồng cảm trong chuyện này thì làm sao để giải thích.” Lão cho chim ăn hamburger có thịt, chim khoái nghe lời lão, lão cho chim uống rượu Whisky. Anh chỉ cho chim uống nước lã, ăn bánh Croissant. Bây giờ nó chào Hello khi muốn ăn, nó kêu Whisky khi muốn uống nên anh không làm sao dạy nó nói “Trời ơi” được nữa. Bất lực, anh đành thả con chim “ Trời ơi” về trời, bởi nó đã quên tiếng Việt rồi. Câu chuyện hẳn là không phải chuyện chim, một ẩn dụ thú vị về con người.

“Chuyện chú chim họa my còi cọc” thì có vẻ ngược với suy nghĩ thông thường của nhiều người. Linh nhận về nuôi con chim họa my mới ra ràng, yếu lẩy bẩy, một phần sống, mười phần chết,  anh dùng nhiều công sức vào chăm sóc cho chim, dần dần chú chim cũng sống sót, lớn lên, nhưng bởi xuất phát điểm quá nhỏ bé, còi cọc nên con chim không to như những chú họa my thông thường. Bù lại chú hót rất hay. Linh yêu chú lắm, anh càng dành nhiều thời gian chăm sóc cho chim. Nhưng một bữa chị Hai của Linh đến chơi, thấy chú chim bị giam trong lồng tội nghiệp, chị khuyên Linh nên giải phóng cho chim được tự do. Chị Hai là người tu đạo, rất có lòng từ bi. Nhưng Linh không chịu, bởi anh gắn bó với chim như người bạn nhiều thời gian rồi. Anh cũng thích tiếng hót của chim. Con chim cũng rất quý mến Linh. Một lần Linh đi công tác về thì không thấy chim trong lồng nữa, chị Hai đã thả chim ra. Tội nghiệp con chim, quen được chăm sóc đầy đủ từ lúc mới ra ràng, cho nó ra tự nhiên thì làm sao sống được. Con chim lại tìm về nhà, đập cánh bên ngoài cửa sổ đã đóng chặt trong đêm mưa gió. Rồi Linh tìm thấy xác con chim ở trong vườn. “Trong chúng ta đôi lúc cứ nghĩ làm việc thiện, thật ra đang làm việc ác, mỗi người, mỗi sinh vật đều có cách sống riêng của nó. Cách sống đó tạo ra từ hoàn cảnh, từ thói quen. Anh bắt người ta ra khỏi thói quen đôi lúc anh trở thành kẻ sát nhân”. Tưởng không cần phải bàn thêm vì câu chuyện của tác giả đã thể hiện hết những gì cần nói rồi.

Trong tập truyện, thỉnh thoảng gặp nhưng “cặp đôi hoàn hảo” như thế. Đỗ Duy Ngọc thường dùng phương pháp kể chuyện hơn là dựng truyện, nhưng vì sao truyện của anh hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối, từ truyện này sang truyện kia? Phải chăng bởi tại anh có vốn sống vô cùng phong phú nên đan truyện bằng những sợi dây lấp lánh sắc màu của chi tiết. Như trong truyện “Bước không qua số phận” tác giả kể về Nhân, nhưng chi tiết rất thật, rất độc đáo: “Học chung lớp với Nhân, càng ngày tôi càng thấy hắn giỏi, nhất là những môn toán, lý, hóa. Thầy dạy môn toán tên Thanh, thầy dạy rất hay, học trò rất mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt, tóc chải dầu bóng lưỡng, cách đi giọng nói rất điệu. Thầy hay cho làm toán chạy, tức là thầy đọc đề xong, trong năm hoặc bảy phút sau thầy chỉ nhận mười bài giải nộp nhanh nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm tối đa, còn giải sai thì khỏi có điểm. Nhân luôn luôn là người giải bài nhanh và đúng nhất. Khi nào hắn nộp trễ hơn một chút thì có nghĩa hắn giải bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên bảng giải toán hình học, hắn vẽ hình bằng tay trái còn tay phải ghi lời giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp thầy nào thầy Thanh cũng ca ngợi Nhân. Thầy còn bảo với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần ghi chép, muốn làm gì thì làm. Các thầy dạy môn lý, hóa cũng bảo hắn thế.”

Còn về truyện “Có một người tên V. Huy”, phải có kiến thức khá sâu rộng về ngôn ngữ lẫn ngoại ngữ mới tả được nhân vật của mình: “Hắn là một thằng thông minh, rất thông minh. Và cũng uyên bác, rất uyên bác. Tôi là người rất ngạo mạn, ít khen ai và cũng ít nể ai, luôn khinh khi những thằng tiến sĩ dỏm nhiều như quân Nguyên chạy đầy đường. Nhưng gặp hắn, quen hắn, biết hắn thì tôi phải khen ngợi hắn thật lòng. Hắn nói tiếng Anh như dân xuất thân từ Oxford, đúng giọng và ngữ điệu. Hắn vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra. Hắn nói tiếng Ý như mưa rào và tiếng Nga thì thôi rồi, nghe không khác gì Putin. Hắn cũng giỏi tiếng Hán, viết thư pháp như múa, đặc biệt là chữ thảo, đọc toàn sách cổ văn, đọc tiếng Đức ầm ầm như bão tố. Ngoài ra hắn còn giỏi tiếng Bồ Đào Nha, đọc kinh Phật bằng tiếng Pali và nói thông thuộc tiếng Khmer. Hay nhất là dù hắn có mười mấy năm ở nước ngoài, có bằng Tiến sĩ ở Nga nhưng lại nói tiếng Việt rất chuẩn, tròn vành rõ chữ và dùng từ thì không chê vào đâu được. Nói một cách khách quan, xét về mặt ngôn ngữ, hắn là thằng trùm thiên hạ.”

Tại sao tác giả lại đặt tên cho thiên truyện dài nhất, hay nhất cũng là tên cho cả tập: “Bước không qua số phận”?  Có vẻ như Đỗ Duy Ngọc chịu ảnh hưởng của thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật? Nhưng khi đọc truyện ta thấy không phải vậy, hình như ông muốn mô tả về thời cuộc mà mỗi con người phải trải qua, đúng như nhà thơ Éptusencô đã nói “Mỗi số phận chứa một phần lịch sử”. Bởi vậy ta không ngạc nhiên khi hầu hết các truyện của Đỗ Duy Ngọc đều trải qua hai thời kỳ, trước và sau ngày đất nước thống nhất. Con người sống qua hai thời kỳ, hai chế độ đó số phận ra sao... chính là nội dung của cuốn sách muốn gửi gắm. Bởi muốn truyền tải được tối đa những tư tưởng, Đỗ Duy Ngọc đã chọn cách viết chân thật, trước hết thuyết phục độc giả tin vào điều mình kể, khi tin người ta dễ đồng cảm với tác giả, qua đó lay động được trái tim người đọc. Đó cũng chính là sức mạnh của nghệ thuật.

(Bài đăng trên Văn nghệ số 29 ra ngày 16/7/2022)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm