TIN TỨC

Trịnh Bích Ngân, người đi tìm ngôi đền thiêng tâm thức

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-22 07:34:00
mail facebook google pos stwis
1011 lượt xem

HƯƠNG THU

Không biết từ lúc nào, nhưng bắt đầu từ khi tôi được nhìn thấy những bức ảnh nhà văn Trịnh Bích Ngân chụp đăng trên face book, tôi đã nghĩ cô ấy ngoài nhà văn còn là một nhà thơ bởi từ những góc nhìn sự vật, sự việc có chiều sâu và mang tính nghệ thuật cao đã cho tôi cái cảm giác ấy.

Không nằm ngoài suy nghĩ của tôi, không lâu sau đó, tôi đã đọc được những dòng thơ đầu tiên của Trịnh Bích Ngân trên trang cá nhân của cô ấy. Những dòng thơ đã để lại trong tôi một ấn tượng mạnh mẽ bởi tính triết luận sâu sắc, và khi tập thơ đầu tiên của nhà văn Trịnh Bích Ngân “Nghiêng về phía nỗi đau” được ra mắt bạn bè và độc giả yêu thơ tôi không hề ngạc nhiên, vì đó là một điều tất yếu.

Dấn thân vào thế giới thơ, một thế giới vừa lung linh, rực rỡ vừa khắc khoải suy tư, Trịnh Bích Ngân đã chọn cho mình một lối đi riêng biệt của dòng thơ hiện thực. Vẫn biết, thơ hiện thực là một trong những dòng chảy của nền thi ca hiện đại. Song. điều khác biệt ở Trịnh Bích Ngân chính là tác giả đã không khai thác cái bên ngoài quen thuộc và luôn phô bày như một thực thể của cuộc sống. Điều nhà thơ hướng tới và luôn khao khát kiếm tìm chính là những điều ẩn khuất, sâu thẳm đầy những ưu tư, trăn trở của thế giới nội tâm. Cái hiện thực được nhà thơ Trịnh Bích Ngân phô bày trên trang giấy, rõ ràng và cụ thể, tưởng chừng như một với một bằng hai, chẳng qua chỉ là phương tiện để giúp nhà thơ gởi đi những mật hàm đầy ý nghĩa nhân văn.

Cuộc sống vốn luôn không hoàn hảo, bên cạnh những điều “sạch sẽ” vẫn luôn có những vết ố, lem luốc hiện diện như một thách thức, và người đàn bà thơ Trịnh Bích Ngân đã thức giấc lúc hai giờ sáng để “chiến đấu” với những vết bẩn làm xấu đi không gian sống, đó là “Những vết bẩn/ tướt đi giấc ngủ/ tướt đi bình yên…”. “Những vết bẩn không thể tẩy rửa bằng hóa chất/ Những vết bẩn ô uế cả những thứ/ Tưởng không thể nào ô uế”, những vết bẩn “Cứ lừng lững nghênh ngang/ Như nhà không chủ, như phố không người” (Người đàn bà tẩy rửa bếp lúc 2g sáng). Đọc thơ Trịnh Bích Ngân và nhận ra nhà thơ luôn dụng lối “Tá hoa trước y”, mượn thực tại để diễn ngôn cho tư tưởng sâu sắc ẩn chứa. Đó là hành trình của người đi tìm “ngôi đền thiêng tâm thức” và chỉ ngộ ra khi đã vượt qua những rào chắn của một dãy sự kiện. Người đọc như khách lữ hành cứ lần lượt vượt qua những hữu hạn của ngôn ngữ và cuối cùng chạm đến cái vô hạn của tư tưởng ngời sáng.

Thơ Trịnh Bích Ngân vì vậy vừa hiện thực giản đơn, vừa sâu sắc ý niệm, vừa gần gũi cuộc sống, vừa cao vời cảm xúc. Đó là những đúc kết từ những trải nghiệm của cuộc sống thường hằng, nó tự nhiên như hơi thở, nó gần gũi như chính mỗi chúng ta đều là người trong cuộc. Nó vừa thực, vừa ảo, tùy vào góc nhìn và cự ly xa gần của mỗi người khi đối diện với thực thể và cho đi một tầng suất cảm xúc như thế nào “Tôi chờ từng giọt cà phê/ nhỏ xuống lòng chiếc ly sứ/ trong tiếng nhạc của trăm năm trước/ trong nỗi đau của ngàn năm trước/ đặc sánh như giọt đắng tôi uống/ mỗi ngày/ Mỗi ngày/ trong tầm nhìn của tôi/ dường như tất cả vẹn nguyên/ mỗi sáng của những ngày đã qua/ mất còn của năm tháng đã lùi xa/ tất cả vẫn vẹn nguyên…” (Ở cự ly gần)

Có một điều tôi dường như đã bắt gặp chính mình trong thơ của Trịnh Bích Ngân, đó là nỗi cô đơn khi đối diện với đêm. Bóng tối soi rọi ý thức, níu gần khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, những suy tưởng miên man khi đắm chìm trong khoảng tối của đêm thật dịu dàng như một dòng sông êm đềm tĩnh lặng cứ mãi miết trôi đi, âm thầm và lặng lẽ: “Đêm/ dòng sông quá đỗi dịu dàng…”, nhưng, cũng có lúc “Đêm dềnh dàng như bóng ma thiên cổ”, chiếm ngự và ghì siết cả cõi tâm linh của tầng ý thức, Một “Đêm Cửu Long” khác với một “Đêm Thủ Đức” càng không giống với một “Đêm Sài Gòn”.

“Nghiêng về phía nỗi đau” Trịnh Bích Ngân đã đến gần hơn với nỗi đau của tha nhân, trái tim người thơ run lên theo từng cung bậc cảm xúc “Biết người khác đau/ và mình cũng cảm thấy đau/ bên kia bến, bên này bờ/ những nhịp cầu chênh vênh/ trên dòng sông/ chảy xiết…” (Khoảng cách đôi bờ). Hình ảnh nhịp cầu chênh vênh, dòng sông, con nước chảy xiết… cho người đọc một liên tưởng đến nỗi đau của sự chia cắt, của phận người nhỏ bé mong manh trước những bạo liệt của cuộc sống. Ở đó có cả “Nỗi đau của lẽ tử sinh”. Trịnh Bích Ngân đã quán chiếu bằng những ý niệm sâu sắc để làm nhẹ bớt, hoặc giả để xoa dịu bớt những nỗi đau, có thể làm người ta gục ngã “Sự sống không khởi đầu/ cũng không kết thúc/ chỉ là một hành trình/ mỗi bước chân cũng là đến đích/ những bước chân trên lối đi chưa ai đi…/ Cái chết không kết thúc/ cũng không khởi đầu…” (Ánh sáng của sự lịm tắt).  

Xuyên suốt cả tập thơ, Trịnh Bích Ngân chỉ sử dụng một lối thơ duy nhất. Không hề có bóng dáng niêm luật vần điệu của các thể thơ truyền thống. Tác giả chọn thể thơ tự do và sáng tạo với lối ngắt câu không theo “nghĩa” mà theo “cảm” để làm rõ hơn, mạnh hơn thông điệp muốn truyền đạt. ví dụ “Những nỗi đau/ cuồn cuộn/ khói đen/ Tôi ngồi đây/ Hít thở ban mai/ Mà thấy mình/ Có tội” (Lối thoát nào cho nỗi đau). Một lối viết không cho phép người đọc dừng lại nửa chừng, cứ cuốn miết, cuốn miết, nó thôi thúc người đọc cứ phải rảo bước, đi cho hết con đường khi chưa tìm ra được thứ ánh sáng của ý niệm, và cứ như thế, thơ Trịnh Bích Ngân như một dòng chảy khi nhẹ nhàng, khi thúc bách, khi cuồn cuộn chảy siết, khi thư thả thong dong và cuối cùng ánh sáng chân lý bừng lên cho người đọc một cảm giác thỏa mãn sự tò mò và tìm kiếm, và luôn để lại một nỗi băn khoăn, một niềm trăn trở hay một sự cảm thông, ray rứt nơi người đọc, và tôi nghĩ Trịnh Bích Ngân đã thành công. 

Là nhà văn nên Trịnh Bích Ngân biết cách chọn lựa, sử dụng ngôn ngữ sao cho đơn giản, dễ hiểu nhất, nhưng phải truyền tải được những triết luận sâu sắc. Chính những điều đó đã tạo nên những giá trị cho tập thơ “Nghiêng về phía nỗi đau”.

Là Ủy viên Thường vụ Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, nhà văn Trịnh Bích Ngân đã rất thành công qua nhiều tác phẩm về truyện ngắn, Ttiểu thuyết, kịch bản sân khấu, truyện hài hước… đặc biệt tiểu thuyết “Thế giới xô lệch” đã được tái bản đến sáu lần, và tôi nghĩ hiện tại, cũng như ở một tương lai rất gần ngoài chức danh nhà văn, chúng ta sẽ có thêm một nhà thơ Trịnh Bích Ngân với nhiều tác phẩm thơ được người đọc yêu thích.

 

THƠ BÍCH NGÂN

Trích từ tập thơ “Nghiêng về phía nỗi đau”

 

Nghiêng về phía nỗi đau

 

Vũ trụ bao la

chỉ có trái đất cưu mang sự sống

chỉ có trái đất trĩu nặng

hạnh phúc và nỗi đau.

 

Hạnh phúc

một thoáng nhẹ tênh

vùn vụt thời gian

ngắn ngủi

đời người.

 

Nỗi đau

luồn sâu huyết quản

đôi khi chẳng khác dòng nham thạch

phun trào

 

Nước mắt

không thể cân đo đong đếm

trái đất bồng bềnh

nghiêng về phía nỗi đau

 

Trái đất cưu mang

trái đất khước từ

trái đất kéo căng

trái đất xô lệch

và mong manh

như quả trứng

trong sấp ngửa bàn tay

 

Anh và em

có kịp yêu thương

có kịp tha thứ

có kịp nắm tay nhau

cho đến khi

tóc không còn bạc hơn được nữa.

 

 

Ở cự ly gần

 

Tôi chờ từng giọt cà phê

Nhỏ xuống lòng chiếc ly sứ

Trong tiếng nhạc của trăm năm trước

Trong nỗi đau của ngàn năm trước

Đặc sánh như giọt đắng tôi uống mỗi ngày

 

Mỗi ngày trong tầm nhìn của tôi

Dường như tất cả vẹn nguyên

Mỗi sáng của những ngày đã qua

Mất còn của năm tháng đã lùi xa

Tất cả vẫn vẹn nguyên

 

Tượng Phật bạn tôi thỉnh từ một ngôi chùa

Nằm bên bờ sông Hằng văng vẳng tiếng kinh cầu

Vẫn trước mặt tôi

Mỗi sáng nhìn dáng tọa thiền

Thấy lòng chùng xuống, chùng xuống

Tận đáy sâu

 

Tượng nữ thần tự do nhỏ bé

Bạn tôi mang về từ đảo Liberty

Nơi nữ thần mãi giơ cao ngọn đuốc

Dù trăm năm qua hay ngàn năm tới

Vẫn đứng chôn chân một chỗ

Trước bão tố bủa vây

 

Ở cự ly gần

Tôi ngắm dáng lưng Đức Phật

Hơi ngã về sau

Nơi chúng sinh khát giọt cam lồ

 

Ở cự ly gần

Tôi nhận ra bàn tay nữ thần thiếu ngón

Ngọn lửa như ngọn giáo

Những phiên bản tự do có mặt khắp nơi

Những phiên bản khác xa bản gốc

Dù cánh tay vẫn vươn về

Phía trời xanh

 

Phía trời xanh

Mây đang trôi

Thời gian đang trôi

Phật tọa thiền

Phiên bản nữ thần tự do giơ cao ngọn giáo

Tách cà phê không còn bốc khói

Ngụm cà phê nguội và đắng

Thấm dần

Trong một ban mai.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm