TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Từ chữ ‘Man’ trong bài ‘Tây Tiến’ của Quang Dũng, nghĩ về chữ ‘Chợ’ trong ‘Qua đèo Ngang’ của Bà Huyện Thanh Quan

Từ chữ ‘Man’ trong bài ‘Tây Tiến’ của Quang Dũng, nghĩ về chữ ‘Chợ’ trong ‘Qua đèo Ngang’ của Bà Huyện Thanh Quan

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-23 22:45:24
mail facebook google pos stwis
3840 lượt xem

Nguyễn Công Thanh

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – 1. Quang Dũng là nghệ sĩ tài hoa, có nhiều năng khiếu nghệ thuật. Ông sáng tác bài thơ “Tây tiến” vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ nồng nàn đối với Tây Tiến – đơn vị chiến đấu cũ – cũng là nỗi nhớ về dải núi rừng miền tây Tổ quốc có vẻ đẹp hùng tráng mà Quang Dũng đã một thời gắn bó. Không khí lãng mạn rất riêng biệt của những ngày đầu kháng chiến, tư thế dấn thân đầy kiêu hùng, quả cảm của những người con Hà Nội hào hoa, đa tình đã được thể hiện đậm nét ở từng câu thơ chứa đầy chất nhạc, chất họa, vừa trang trọng, cổ kính lại vừa tươi tắn, trẻ trung.

Tuy nhiên, trong bài viết nhỏ này, chúng tôi không bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật rất đặc sắc của bài thơ mà chỉ tìm hiểu nghĩa chữ “man” trong bốn câu thơ:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

“Man điệu” là vũ điệu của người dân tộc thiểu số (một số người nói tránh “man điệu” là “một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ”). Trong suy nghĩ và cách gọi của Quang Dũng cũng như những người lính Tây tiến có gốc gác trí thức Hà thành, những người dân tộc ít người Tây Bắc là người man (man di).


Nhà thơ Quang Dũng (1921 – 1988).

Tây tiến sáng tác năm 1948, khi Nhà nước công nông đề cao sự bình đẳng giữa các dân tộc ra đời đã ba năm, mà trong tư tưởng của người trí thức Hà thành những điệu nhạc lạ của người miền núi vẫn gọi là “man điệu” (nhạc điệu của người man). Tài liệu Ngữ văn 12 (SGV), khi bình về đoạn thơ này, chẳng những không hề chê trách, phê phán nhà thơ dùng chữ “man” mà hết lời khen ngợi:

“Đây là đoạn thơ bộc lộ rất rõ nét tài hoa của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ. Vì thế, cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà lời thơ lại cho ta cảm giác đó là cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ!” – một giọng thơ thật trìu mến, thích thú, vui sướng! Vui sướng đến ngạc nhiên ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e thẹn, vừa tình tứ (nàng e ấp) với bộ xiêm y lộng lẫy trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ (man điệu). Chỉ bằng 4 câu thơ mà Quang Dũng đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc đường nét, vừa đa dạng về âm thanh”.

2. Trước Quang Dũng khoảng 150 năm, Bà Huyện Thanh Quan cũng đã dùng chữ “rợ” để gọi tên nhà cửa của người “xứ lạ” trong bài thơ Qua đèo Ngang: “Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông rợ mấy nhà”. Có điều chữ “rợ” đang được các nhà nghiên cứu tranh cãi, bàn luận.

Phần lớn các Tuyển tập thơ trung đại Việt Nam, các Giáo trình Cao đẳng-Đại học và SGK Ngữ văn phổ thông xuất bản sau 1945 đều ghi là “chợ: “Lác đác bên sông chợ mấy nhà” (mấy túp lều chợ lác đác bên sông). Ngược lại, một số nhà thơ, nhà nghiên cứu cho rằng đó là chữ “rợ”. Theo họ, ở thời điểm sáng tác bài Qua đèo Ngang, từ “chợ” có thể dùng âm xuất phát “trợ” trong Hán Việt vì lúc này sự đối lập TR > < CH đã bị xoá nhòa, cùng với sự đối lập GI > < D > < R…, vì vậy chữ RỢ cũng có thể ghi bằng TRỢ.

Theo Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính (Nxb Văn nghệ TP HCM và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2018), cách ghi âm đầu /R/ chữ Nôm phân bố như sau:

Có:

539 trường hợp ghi bằng L
84 trường hợp ghi bằng TR, CH
110 trường hợp ghi bằng GI, D
27 trường hợp ghi bằng TH…

Trường hợp dùng TR, CH ghi R chiếm tần suất khá lớn.

Ông Nguyễn Hùng Vĩ (Văn hoá Hà Tĩnh số 71, 6/2004) cho biết có 5 bản chữ Nôm ghi bài thơ Qua đèo Ngang. Trong 5 bản chữ Nôm có bản AB.620 chữ RỢ được ghi (theo ông là rất lưu loát) bằng bộ nhân đứng (亻) bên cạnh chữ TRỢ (助). Đây là điểm rất có giá trị với sự thống kê trên, nó cho ta thấy 톭 chắc chắn phải đọc là RỢ. Nếu là chữ CHỢ thì ở thời Bà huyện Thanh Quan đã có chữ 닭 (âm TRỢ đã được bỏ tính chất quặt lưỡi, đọc là CHỢ, và chữ thị (市) nghĩa là “cái chợ” biểu nghĩa). Nếu không có cứ liệu Nôm nào bác lại thì chắc chắn đọc là RỢ đúng hơn.

Những người quan niệm chữ “rợ” trong bài thơ Qua đèo Ngang giải thích thêm: “Ý khinh miệt là ngày nay chúng ta thêm vào, chứ thực tình RỢ chỉ là cách gọi xưa đối với các dân tộc ngoài Hoa Hạ của người Hán. Tiếng Hán có 東 戎, 西 夷, 南 蠻, 北狄 “đông Nhung, tây Di, nam Man, bắc Địch” (phía đông có người Nhung, phía tây có người Di, phía nam có người Man, phía bắc có người Địch). Chữ DI có âm Hán cổ là RỢ” (Thivien.net).

3. Ngoài những chứng cứ và cách lập luận rất chặt chẽ, đầy sức thuyết phục trên, thi pháp thơ Đường còn giúp chúng ta khẳng định đó là chữ “rợ”. Thơ Bà huyện Thanh Quan tuân thủ đến mức chuẩn mực tính chất quy phạm về kết cấu, về vần, luật, đối, niêm của thơ Đường luật. Vì thế câu trên “tiều vài chú” (tiều phu là người đi đốn củi) thì câu dưới phải là “rợ mấy nhà” (rợ là người dân tộc) – danh từ chỉ người đối với danh từ chỉ người (vài chú tiều đối với mấy nhà của rợ). Còn chữ “chợ” (nơi diễn ra hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ bằng tiền tệ hoặc hiện vật) không đối với chữ “tiều” ở câu trên.

Thêm nữa, đèo Ngang thế kỷ XVII – XVIII là vùng biên ải, đèo cao hiểm trở, núi rừng hoang vu. Đây là nơi sơn cùng thủy tận của Đàng Ngoài, thời Vua Lê chúa Trịnh, làm gì có chợ? Chợ chỉ họp nơi đông đúc dân cư, có nhiều người mua bán, trao đổi. Vì vậy, từ “rợ” là hợp lý và đúng với văn bản thơ của bà Huyện.


Chân dung Bà Huyện Thanh Quan. Ảnh: Nhà xuất bản Kim Đồng

4. Khi tiếp cận hai bài thơ trên, độc giả sẽ thắc mắc: tại sao Quang Dũng dùng từ “man” (man điệu), chúng ta thấy hay, không có bất cứ sự kỳ thị nào mà khi Bà Huyện Thanh Quan dùng chữ “rợ” lại lo cho bà có thái độ miệt thị phải đổi thành chữ “chợ”? Quang Dũng thuộc tầng lớp trí thức Tây học Hà thành, lại được tắm gội bầu không khí công nông binh trong ba năm làm chiến sỹ vệ quốc quân, vậy mà khi gặp điệu múa lạ ở miền sơn cước bỗng reo lên: “Khèn lên man điệu nàng e ấp”, thì bà Huyện (vợ Tri huyện), quan lại phong kiến tập quyền thời nhà Nguyễn khi nhìn thấy mấy ngôi nhà nhỏ cheo leo bên khe đá của người dân tộc sao không gọi đó là “rợ mấy nhà” được? Thiết nghĩ, dùng chữ “chợ” thay cho chữ “rợ” trong bài thơ Qua đèo Ngang giúp bà Huyện khỏi mang tiếng kỳ thị chẳng khác gì “Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau”!

Do đó, chúng tôi đề nghị hãy phiên âm cho đúng nguyên bản bài thơ từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ; đặc biệt là chữ “rợ” trong câu “Lác đác bên sông rợ mấy nhà”!

N.C.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm
Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ
Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách.
Xem thêm
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách
Bài của PGSTS Vũ Nho đăng Văn nghệ Công An
Xem thêm
“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng
Bài của TS Hoang Thu Thủy về thơ PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
“Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh
Bài phản biện của nhà thơ Hương Thu xung quanh việc khen chê truyện ngắn Trăm Ngàn
Xem thêm
Bi kịch tiếp nối bi kịch
Bài viết về truyện KHÚC BIỆT LY MẦU TÍM – truyện ngắn của Trầm Hương
Xem thêm
Thơ Bùi Minh Vũ từ góc nhìn địa - văn hóa
Từ góc nhìn địa – văn hóa và mỹ học sinh thái, nhà phê bình văn học Hồ Thế Hà đã có bài viết công phu, thấm đẫm cảm xúc và tư duy học thuật về thơ Bùi Minh Vũ – đặc biệt là tập Những tiếng đàn hồng (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Xem thêm
Nhà thơ Xuân Trường – mẫn cán và lãng tử
Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm viết về “Hai vệt nắng chiều”, thơ Xuân Trường, NXB Hội Nhà Văn 2018
Xem thêm
Ánh sáng cuối chiều và ký ức người lính thi sĩ
Tập thơ Giọt nắng cuối chiều của Trần Ngọc Phượng là một tuyển lựa tâm huyết, ghi lại hành trình sống và cảm từ một đời người từng trải: từ trận mạc đến hậu chiến, từ ký ức cá nhân đến thế sự chung.
Xem thêm
Đặc trưng giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn
Bậc thầy truyện ngắn Nga A.P.Chekhov (1860 - 1904) từng cho rằng: “Muốn đánh giá một nhà văn, hãy xem giọng điệu văn chương của anh ta”. Như vậy, giọng điệu văn chương (hay giọng điệu nghệ thuật) là một yếu tố rất quan trọng trong tác phẩm, nhất là trong truyện ngắn, vì những đặc điểm riêng biệt của nó.
Xem thêm
Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ (phần 2)
Sau phần đầu khiến giới văn chương phải xôn xao, TS Hà Thanh Vân tiếp tục “lên tiếng” bằng phần 2 – nhiều dẫn chứng, thuyết phục hơn và không kém phần lôi cuốn…
Xem thêm
Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ (phần 1)
Bài viết dưới đây của TS. Hà Thanh Vân là một góc nhìn thẳng thắn về chất lượng một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì báo Văn nghệ.
Xem thêm
KHÁT để biển khơi và CHÁY để mặt trời!
Tự ngẫm rồi thương mình từng múa may theo tiếng kèn hư danh/ Tâm biển khơi hóa ao tù, thi tài mặt trời thành đom đóm.
Xem thêm
Bài thơ ANH QUÊN của nhà thơ Phạm Đình Phú
Bài của nhà thơ Nguyễn Đình Sinh
Xem thêm