TIN TỨC

Vì yêu mến chữ yêu người yêu văn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-06-16 18:05:35
mail facebook google pos stwis
2092 lượt xem

Bút kí của LA GIANG (Nguyễn Minh Đức)

Nghề viết báo, viết văn, làm thơ suy cho cùng là nghề rất vất vả, khổ ải. Nhưng đổi lại, thật đỗi hạnh phúc và vinh quang, nhất là những khi “đứa con tinh thần” của mình “thai nghén, mang nặng đẻ đau” được chào đời một cách trọn vẹn, được đón nhận và sống lâu trong lòng bạn đọc, được bạn đọc mãi nhớ đến. Bởi vậy, thiết nghĩ khi ta yêu mến chữ không thể không yêu người yêu văn. Nhân kỉ niệm 100 năm Báo chí cách mạng Việt Nam, xin được bày tỏ đôi điều tri ân.

Đoạn trường yêu mến chữ

Tôi tập tọe viết báo khi đang học năm thứ hai của Trường Sĩ quan chính trị - Quân sự Bắc Ninh (nay là Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng). Hồi ấy, do đam mê đọc và nghe, chưa khi nào tôi có thể được đọc và nghe nhiều như thời kì ngồi trên ghế nhà trường. Nguồn đọc chủ yếu trên Báo Quân đội nhân dân (thời ấy 4 trang), Báo Nhân dân và một số loại báo khác, nhưng muốn đọc nhiều thì phải đến thư viện.

Ngay giữa năm học thứ nhất, tôi đã được “thẻ đặc cách” thư viện, đó là chính sách ưu tiên bạn đọc của Nhà trường. Thời ấy chưa có tivi, nguồn nghe chủ yếu qua radio trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, nhưng chỉ được nghe chương trình thời sự vào khung giờ nhất định và chương trình Phát thanh quân đội hằng tối vào lúc từ 21h đến 21h30. Các tối thứ 7, chủ nhật có chương trình văn nghệ tổng hợp. Tôi thích nhất chương trình vào khung giờ đó. Lịch thời gian của học viên sĩ quan như guồng máy, kín mít, giờ nào việc đó. Việc đọc và nghe là tranh thủ từng phút từng giờ, hễ rảnh rỗi lúc nào đọc lúc đó.

 Điều thú vị hơn là, ngay giữa năm học thứ nhất, tôi đặt bút tập viết bài báo nhỏ gọi là “hộp diêm”. Ban đầu tôi khá viết dài, câu văn loằng ngoằng như dây rau muống. Viết xong, nhờ anh Quý, Phó đại đội trưởng chính trị của tôi đọc, góp ý. Cũng phải mất vài ba lần, đến lúc anh có vẻ hơi cáu (vì anh công việc nhiều), nên tôi nản. Vài tuần sau, khi đọc được tác phẩm ưng ý ở báo, tôi lấy bút đếm số chữ, nghiên cứu cách viết của họ. Cách đặt “tít” thế nào? Mở đầu từ đâu? Vì sao mở đầu như thế? Dạng bài ấy là phản ảnh hay tin tức? Lấy nguồn tin ở đâu? Làm cách nào để có nguồn tin đáng tin cậy ấy...? Thế nào là dạng tin, bài phản ánh, bài phóng sự, phóng sự điều tra, thế nào là thể kí, kí chân dung, bút kí, hồi kí, kí văn học thì khác kí báo chí chỗ nào? Cách sáng tác một bài báo hoàn chỉnh theo từng thể loại. Hàng loạt câu hỏi cứ thế vang lên trong đầu. Sau vài ngày, tôi tìm đọc được nguồn tài liệu về viết báo của nhà báo Hữu Thọ, ông làm việc ở Báo Nhân dân và một số tài liệu liên quan khác. Tôi đọc kĩ, đánh dấu từng phần rồi viết thử.

Mỗi tối, sau điểm quân số, điểm danh xong, tranh thủ trước giờ buông màn mấy chục phút, tôi lọ mọ ra cột đèn (vì trong phòng đã tắt đèn) viết ra tờ giấy rồi viết lại vài lần. Khi viết được rồi, đợi ngày giao ban, tranh thủ lúc anh Quý vui vẻ, chuẩn bị chơi thể thao thì tôi ào đến dúi bài đưa anh và khoe: “Em viết được rồi. Anh đọc lại giúp ạ!”. Anh cầm lướt nhanh, chẳng nói gì. Bài chỉ 300 chữ thôi, đọc nhanh lắm. Buổi tối, anh cho gọi lên và góp ý chỉnh sửa 4 chữ. Anh nói em chịu khó rèn như vậy là tốt đấy. Mai này tốt nghiệp có thể tiếp tục học làm nhà báo được. Tôi sướng rơn trong lòng. Chiều chủ nhật được anh ra ngoài doanh trại, tôi đến bưu điện dùng hai con tem “tiêu chuẩn” gửi về Báo Quân đội nhân dân theo địa chỉ số 7, Phan Đình Phùng, Hà Nội.

Hơn tuần sau, đang lúc buổi học chiến thuật. Giờ giải lao, trực ban gọi toáng lên: “Bài của mày được đăng đây này! Thằng này giỏi quá hè!?”. Cả bọn xúm lại đòi khao. Vậy là hai bao thuốc lá Sông Cầu với ấm chè Thái Nguyên (lính lác với nhau gọi là “ấm chè” và “bao thóc”) coi như xong bài báo. Bài “hộp diêm” ấy đóng khung cẩn thận, ở góc nhỏ tờ báo nhưng trang trọng, tôi sướng cả tuần. Bài báo có tựa “Góc khuất ông Sáng”, viết về góc khuất ở ngã tư đường, nhà ông Sáng ở ngay đó. Ngày trước, nhà ông trồng hàng dâm bụt bao quanh. Chẳng hiểu thế nào ông mua gạch xây kín. Không xây chườm ra đường nhưng ngã tư ấy là một góc khuất “nguy hiểm”. Nhà ông thì đẹp mà ngã tư thì nhiều xe và người gặp nạn. Góp ý nhẹ nhàng và có chuyển biến sau một thời gian, bờ tường khuất lấp ngã tư ông Sáng đập và thay chấn song. Theo nhận xét của anh Quế, trưởng phòng bạn đọc Báo Quân đội nhân dân sau này, nói: “Cái “tit” của cậu khá ấn tượng. Cố gắng nhé”. Tôi biết, Trường Sĩ quan chính trị đã đào tạo nhiều cán bộ sĩ quan sau này tốt nghiệp ra làm báo. Ở đó cũng có những khối, lớp đào tạo báo chí chuyên nghiệp. Nhưng thời kì ấy tôi đang học sĩ quan, viết báo chẳng qua chỉ là “học mót, học lỏm” của các anh chị chứ có bài bản trường lớp gì đâu. Rất vui là có nhiều bài báo, bài thơ được sử dụng.

Khi ra trường làm cán bộ quản lí, tôi tranh thủ học thêm, rồi được đi bồi dưỡng lớp báo chí của Tổng cục Chính trị. Từ đó, tôi viết nhiều thể loại, cả viết báo, viết văn, làm thơ. Thực tiễn những năm quản lí ở đơn vị cơ sở tuy vất vả nhưng thật lí thú, sống gần anh em, được đi nhiều nơi, học tập và tìm hiểu, có nhiều tư liệu để viết. Tôi nhớ mãi bài kí: “Lại Yên như thế bao giờ mới yên?”, là bài viết về làng nghề của xã Lại Yên, thuộc Hoài Đức (Hà Tây cũ). Cũng là cách góp ý nhẹ nhàng về làng nghề nhưng sản xuất gây ô nhiễm. Người dân bức xúc cãi nhau, xung đột ý thức đến lợi ích, đời sống tinh thần căng thẳng. Bài báo ấy ra sau thời gian thì Hà Tây nhập về Hà Nội. Một cuộc chấn chỉnh về nhận thức, tư tưởng, hành động sau đó, xã Lại Yên đã yên trở lại, Thủ đô thêm góc văn minh.

Cũng là viết về làng nghề truyền thống, tôi về làng lụa Hà Đông viết bài “Nghìn năm vẫn tiếng thoi đưa”, khẳng định giá trị văn hoá truyền thống của một làng nghề lâu đời. Từ khi cụ Lã Thị Nga (vợ ông Cao Biền, thời Đường) từ Hàng Châu theo chồng sang thu phục quân Nam Chiếu, xây thành Đại La. Bà đến làng Vạn Phúc thấy dân tình khổ ải, bà truyền nghề trồng dâu nuôi tằm ươm tơ dệt lụa cho người dân, lập nên làng lụa. Mãi đến nay (năm 2010) kỉ niệm nghìn năm Thăng Long Hà Nội, nghề tầm tang hơn nghìn năm bên dòng Nhuệ giang thoi chẳng ngừng đưa, mang đến sản vật đặc sắc làm đẹp cho đời. Cũng chính mảnh đất này, Bác Hồ viết “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” tháng 12/1946. Những bài thơ, bài báo, truyện của tôi viết về mảnh đất và con người nơi đây được bạn đọc yêu mến.

Tôi viết khá nhiều tin, bài cộng tác với các báo Trung ương và địa phương, nhất là Báo Quân đội, Báo Nhân dân, Chương trình Phát thanh quân đội, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Báo Văn nghệ, Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Báo Đồng Nai… về các lĩnh vực văn học, văn hoá, giá trị văn hoá truyền thống cần tiếp tục phát huy, lưu truyền. Mỗi bài tôi gắng rèn giũa chắt chiu, tiết chữ, nén thông tin đến độ tối đa nhất có thể, triệt tiêu những chữ thừa, không cần thiết cho cấu trúc câu, giúp người đọc dễ hiểu, phát thanh dễ nghe.

Sau này, khi chính thức trở thành nhà báo, tôi được phân công đảm nhiệm công tác biên tập, rồi làm Phó Trưởng ban Tạp chí Khoa học và chiến thuật, một tạp chí chuyên ngành của Trường Sĩ quan Lục quân 2 (Đại học Nguyễn Huệ), tôi càng nỗ lực rèn giũa mình nhiều hơn, trau chuốt từng con chữ, làm “bà đỡ” cho nhiều tác phẩm của cộng tác viên có được “sản phẩm” ưng ý. Gần 15 năm làm việc ở cơ quan quản lí báo chí, tôi ý thức rõ trách nhiệm biên tập báo, giúp cộng tác viên trưởng thành qua từng tác phẩm được sử dụng, đăng tải.

Công việc ở cơ quan quản lí báo chí, dù là cấp cơ sở nhưng khá căng thẳng vì áp lực chuyên môn, tiến độ và nhiều mặt khác. Tuy vậy, tôi vẫn thường xuyên viết, cộng tác với các báo, trong đó có Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai, nơi tôi hiện đang là biên tập viên mảng văn xuôi. May mắn viết bài và được các nhà văn, nhà thơ, nhà quản lí văn hoá kì cựu yêu mến để mắt tới, giới thiệu, được Ban Chấp hành Hội đồng ý, trở thành hội viên hơn chục năm qua và là cộng tác viên của Tạp chí.

Yêu người yêu văn

Tôi yêu mến tất cả mọi người, trước hết là bạn bè đồng nghiệp viết. Ngay cả khi chưa yêu người, chưa được gặp tác giả lần nào nhưng được đọc tác phẩm của họ, tôi yêu văn họ trước rồi tìm hiểu và yêu mến con người họ sau. Mỗi khi đọc được tác phẩm tốt nào đó của họ, dù dưới bất kì sản phẩm nào, là bài báo, văn xuôi như truyện, bút kí, hồi kí, tản văn, những bài thơ hay, bình thơ, bình luận văn nghệ, nghe ca từ kết hợp âm nhạc… tôi cho rằng đó là những người có thực tài. Đọc họ, bản thân mình được học hỏi và lớn lên khá nhiều thứ, nhất là ngôn ngữ, giọng điệu, kĩ thuật…

Phải thật sự họ có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực đó, có nền tảng, phông văn hoá đủ rộng bao quát và chiều sâu lĩnh vực đó, có trái tim nhân văn và ý thức rõ tác dụng, giá trị về lĩnh vực đó, họ viết bằng cả trái tim mình, kiểm soát bài viết bằng tất cả lí trí theo những quy chuẩn chung kiến thức mà xã hội nghề nghiệp và bạn đọc yêu mến cần, tác phẩm họ viết ra được bạn đọc đón nhận, trở thành người bạn của bạn đọc, sống lâu trong đời sống lĩnh vực đó và lan toả trong xã hội. Đó là tác phẩm có giá trị và thành công. Điều này thì nhận định của nhà quý tộc người Pháp La Rochefoucault từ thế kỉ XVI đã đúng. Ông cho rằng: “Một quyển sách tốt là một người bạn hiền”. Hay nói cách khác, đọc một cuốn sách hay, bài viết tốt cũng như cách ta ngồi hầu chuyện với người tri kỉ vậy!

Theo tôi hiểu thì các báo, tạp chí trung ương đến địa phương, công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện theo tiêu chí, tôn chỉ mục đích là những vấn đề rất quan trọng. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của hội đồng biên tập, ban biên tập, những người chịu trách nhiệm chính, có tiếng nói quyết định cho một tờ báo, tạp chí ra đời đúng định hướng, đạt mục đích tuyên truyền, là cơ quan ngôn luận, tiếng nói của tổ chức Đảng hoặc từng ngành nghề riêng. Đồng thời, đội ngũ làm công chuyện “bếp núc” của toà soạn và trị sự, nhất là đội ngũ biên tập viên có vai trò không nhỏ. Tôi luôn quan niệm đội ngũ biên tập như những “người lính gác cổng” để báo, tạp chí luôn đúng định hướng, tôn chỉ mục đích, hay hơn, hấp dẫn hơn, thu hút bạn đọc ngày càng nhiều và tránh sai sót đáng tiếc. Đội ngũ biên tập viên chính là “bà đỡ”, là “thiên sứ tình yêu” cho những “đứa con” tinh thần, những tác phẩm có chất lượng ra đời. Do vậy, đội ngũ biên tập phải có thái độ làm việc nghiêm túc, bám sát tiêu chí, chọn lọc kỹ lưỡng, thẩm định khách quan, biên tập cẩn trọng, giữ được tiếng nói riêng của tác giả nhưng không để lệch chuẩn về tư tưởng và nghệ thuật.

Tuy vậy, nhân tố quyết định chất lượng tờ báo, tạp chí theo tôi chính là chất lượng sáng tạo tác phẩm, sáng tác của đội ngũ phóng viên, cộng tác viên của tờ báo, tạp chí ấy. Chuẩn mực thẩm mĩ tác phẩm bao gồm nội dung, hình thức và quan điểm sáng tác. Nội dung phải đảm bảo giá trị chân - thiện - mĩ, phản ánh sâu sắc hiện thực đời sống, nuôi dưỡng tâm hồn, lòng yêu nước và ý thức cộng đồng. Hình thức ngôn ngữ cần chắt lọc, nén chữ, biểu đạt phù hợp, sử dụng biểu tượng, hình ảnh giàu giá trị cảm xúc và nghệ thuật. Quan điểm sáng tác của văn nghệ sĩ không tách khỏi trách nhiệm xã hội để chạy theo thị hiếu thấp kém, bạo lực.

Đối với một truyện ngắn, tản văn, bút kí văn học, nhất là một truyện ngắn hay, đã có rất nhiều nhà lí luận phê bình, công trình khoa học, nhà văn nổi tiếng bàn tới. Tôi hiểu rằng truyện ngắn là một tự sự cỡ nhỏ, hấp dẫn, năng động. Để có truyện ngắn hay thì ngôn từ, cấu tứ, nhân vật, cốt truyện, tình huống, không khí truyện, cách kể, ngôi kể và chi tiết đắt. Chừng này yếu tố nếu đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu nó ở bài viết này không thể làm rõ được hết, nhưng cá nhân tôi thấy cả nội dung, hình thức nghệ thuật cũng như quan điểm sáng tác của nhà văn cần “chuyên nghiệp hoá” chính mình, không thể theo lối ngẫu hứng sáng tác được chăng hay chớ.

Chẳng hạn khi ta bàn về ngôi kể trong truyện ngắn, phải xuất phát từ điểm nhìn và ngôi kể vì có liên quan chặt chẽ với nhau. Có điểm nhìn trần thuật, nhìn đằng sau, đằng trước, nhìn bên trong, bên ngoài. Về ngôi kể của nhân vật người kể chuyện, bản thân nhà văn sẽ đứng trước mấy sự lựa chọn: nhân vật kể chuyện là “tôi” (tức là tôi đứng ra kể chuyện mình hoặc một nhân vật đứng ra kể chuyện xưng “tôi”) hay nhân vật đứng ở ngôi thứ ba để kể chuyện. “Tôi” ở đây không phải là nhà văn mà là nhân vật trong câu chuyện kể. Phân biệt được điểm nhìn và ngôi kể, nhà văn sẽ tránh được việc lẫn lộn về lời văn của mình với nhân vật, không làm thay, nói thay nhân vật và không lẫn lộn về ngôi kể trong lúc kể một câu chuyện, dễ làm nhiễu loạn thông tin, bạn đọc nhìn vào văn bản như ma trận chẳng biết đâu mà lần.

Tương tự đối với thơ cũng vậy, thơ phát tiết từ cảm xúc hiện thực đời sống, có tính mãnh liệt, siêu thăng và khái quát cao. Tôi hiểu thơ thì phải có tư tưởng, hình ảnh sáng tạo, ngôn ngữ cô đọng, tránh dễ dãi, cũ kĩ. Nhà thơ Hoài Thanh từng nói “Từ bao giờ đến bây giờ. Từ Homero đến Kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế”. Đến nay, loài người vẫn chưa thôi đi tìm khái niệm thẩm mĩ cho riêng mình. Theo tôi từ ca dao, dân ca Việt Nam phát triển đến thơ hiện nay đã từng trải nhiều giai đoạn tương ứng với những hình thức thể hiện vô cùng phong phú. Từ lục bát đến thơ Đường đến thơ tự do, từ niêm luật, vần luật đến phá cách. Việc lựa chọn hình thức thể hiện nào phụ thuộc vào cảm tác thi sĩ. Nhưng tôi thiển nghĩ nhất thiết nếu đã dùng niêm luật, vần luật thì phải dùng sao cho đúng. Chẳng hạn khi làm thơ lục bát, ngoài yếu tố câu lục (6), câu bát (8) hay trên 6 dưới 8 còn phải đặc biệt chú ý đến vần. Trong gieo vần thì phải chú ý cả vần chân và vần lưng đều là vần bằng, bắt buộc. Tối kị việc gieo vần mà ta không để nó theo vần, kiểu như câu trên (6) là vần “ồng” mà câu dưới “8” là vần “ơm” được, vì đọc vào văn bản có cảm giác tức cười, như đang mắc phải xương cá ở ngang cổ họng vậy. Thể thơ lục, bát ta chưa nói đến Nguyễn Du, Nguyễn Bính và nhiều bậc kì tài khác, chỉ cần đọc “Sông Lấp” của cụ Trần Tế Xương: “Sông kia rày đã nên đồng/ Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai/ Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”. Ngoài việc gieo vần đúng và hay, phân tích kĩ chữ “Vẳng nghe” của cụ trong bài Sông lấp cũng đủ thấy dùng từ hết sức đắt, không ai qua được. Còn hiểu trong “Bóng chữ” của nhà thơ lê Đạt thì cái bóng ấy là đâu là như thế nào cũng viết nên được một bài dài.

Đáng tiếc là có không ít ý kiến cho rằng: “Viết sao là quyền tác giả. Sáng tạo  là của cá nhân, phải cá tính! Cứ gửi đến toà soạn, dùng được thì dùng, không được thì bỏ, không sao”. Theo tôi, như thế là rất lãng phí, thậm chí là quá giản đơn và có phần thiếu trách nhiệm, chưa nghiêm túc với bản thân. Tôi luôn coi trọng sự góp ý phê bình của bạn đọc để kiểm nghiệm, điều chỉnh sao cho phù hợp, đúng tôn chỉ và gần gũi hơn với công chúng mà vẫn giữ được tính đặc thù. Khi biên tập thì không dừng lại ở việc “chọn hay bỏ”, mà là quá trình đối thoại, đồng hành với người sáng tạo và tiếp nhận để đồng sáng tạo một không gian văn hóa tử tế, thân thiện. Đáng tiếc là có những tác giả khi được góp ý mặt kĩ thuật hoặc nội dung tác phẩm dễ dẫn đến xung đột, bằng mặt mà không bằng lòng. Như trên đã nói, cũng giống như người phụ nữ, đã thai nghén thì phải nỗ lực và quyết định sinh con. Người biên tập chỉ làm vai trò “bà đỡ” thôi, không thể can thiệp kiểu “dùng dao mổ bụng lấy con” như bệnh viện được. Do vậy, nhất thiết phải rất quý trọng, nỗ lực vì tác phẩm của mình mà không bảo thủ mãi. Chỉ có Hi Mã lạp Sơn (Himalaya) mới là “Ta là Một, là Riêng, là thứ Nhất” thôi chứ văn nghệ sĩ không thể tách khỏi Nhân dân và bạn đọc.

Trong một xã hội trọng lời khen, đôi khi lạm dụng thái quá dưới tác dụng mạng xã hội đẩy thuyền, lời khen ấy vô tình làm thui chột tài năng chớm hé. Tôi nghĩ hai từ “nổi tiếng”, anh chị ấy, ông bà ấy, nhà văn nhà thơ ấy “nổi tiếng”, như một đẳng cấp cao hơn người khác, làm cho chủ nhân từ chỗ e thẹn đến đỏ mặt rồi đến tái mặt vì hai chữ “nổi tiếng”. Bác Hồ, bậc thầy của ngôn ngữ tiếng Việt, trong rất nhiều tác phẩm, Người cũng chỉ viết: “Ông Đỗ Phủ là người làm thơ Đường nổi tiếng ở Trung Quốc”. Nói vậy không phải Bác quá đề cao mình mà là đúng đắn và khiêm nhường trong sử dụng từ ngữ sao cho đúng, cho hợp, cho vừa phải. Phung phí quá lời khen một ai đó cũng làm đau lòng chữ. Bác Hồ dạy người viết báo, viết văn hay làm thơ cũng thế, viết cái gì, viết cho ai xem, viết như thế nào vẫn mãi là chân lí cho người mang nghiệp viết mà tôi luôn hằng học tập, noi theo.

Biên Hoà, tháng 5/2025
N.M.Đ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Phú Yên nghĩa tình và khát vọng hồi sinh - Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng báo Văn nghệ số 50, ra ngày 13/12/2025
Xem thêm
Lời thì thầm của biển – Tản văn của Như Nguyệt
Còn bạn thì sao? Bạn nghe điều gì từ lòng biển? Tôi tin dù bạn nghe được điều gì, hãy giữ lấy niềm tin ấy thật chặt, bởi vì mọi “lời thì thầm” đều có sức mạnh của riêng nó.
Xem thêm
Diễn viên Thương Tín đã về cõi lặng
Thông tin từ chị Bùi Kim Chi (vợ Thương Tín) cho biết, Thương Tín đã qua đời vào khuya nay tại nhà riêng Phủ Hoà, Phan Rang.
Xem thêm
Ký ức về bố – Bút ký Vũ Mạnh Định
Pleiku những ngày này mưa dầm dề do ảnh hưởng bão. Mưa trắng xóa cả bầu trời, gió hun hút qua hàng cây phủ kín cả phố núi. Tiếng mưa khiến lòng tôi chùng xuống, ký ức bất chợt ùa về. Mưa như tấm màn xám phủ trùm đất trời, có khi kéo dài cả tháng không dứt. Ngày ấy tôi còn quá nhỏ để hiểu nỗi buồn của những cơn mưa, chỉ nhớ nó dai dẳng đến mức sáng hay chiều cũng nhập nhòe một màu xám đục. Nhưng chính sự dầm dề ấy lại trở thành lát cắt đặc biệt của tuổi thơ, để sau này, mỗi lần nghe mưa nơi khác, tôi ngỡ như vừa chạm vào những ngày Pleiku xưa cũ, ngày mưa dài đến mức thời gian như ngưng đọng.
Xem thêm
Một Việt Nam nhân hậu giữa bão lũ và nước mắt
Giữa màn đêm bị xé toang bởi gió, nước và tiếng kêu cứu, người ta lại nhìn thấy những điều kỳ diệu khác: tình người, sự hy sinh, lòng nhân hậu – những phẩm chất làm nên cốt cách vĩ đại của dân Việt.
Xem thêm
Hai vị đại tướng Nam Bộ qua bút ký của nhà văn Trần Thế Tuyển
Lịch sử QĐND VN có nhiều vị tướng huyền thoại. Trên mảnh đất Phương Nam - Nam Bộ cũng có những vị tướng như thế. Đặc điểm chung của các vị tướng Nam Bộ là sống hết mình: Hết mình vì đất nước, nhân dân; hết mình về đồng đội, bạn bè; sống chân thật, thuỷ chung …mà người đời thường gọi là “Ông Già Nam Bộ”.
Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm