TIN TỨC

Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-09-04 19:39:13
mail facebook google pos stwis
114 lượt xem

Với bài viết dưới đây, nhà văn Trầm Hương đi tìm lời giải cho “ẩn số đường đến thơ” và thấy trong thơ Trần Hóa dạt dào lòng trắc ẩn, bắt nguồn từ tiếng ru của bà, của mẹ, trải qua chiến tranh, bệnh tật, thương trường… để rồi kết tinh thành những câu thơ giản dị mà chạm lòng người.
 

TRẦM HƯƠNG

Khép lại trang cuối tập thơ “Lời ru bão giông”, tôi tự hỏi điều gì đã khiến Trần Hóa tìm đến thơ. Người đàn ông này không còn trẻ nữa. Anh đã ở tuổi ngoài 70, đã nếm đủ hương vị hỉ nộ ái ố của cuộc đời, đã từng cầm súng chiến đấu, trở về với đời thường, nỗ lực lập thân, kiến tạo gia đình hạnh phúc.Nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh; từng đi qua cửa tử của căn bệnh hiểm nghèo… Anh còn thiếu gì để khao khát, có gì để đáng kinh ngạc?! Vậy mà có một thứ đã khiến anh lao tâm khổ tứ kiếm tìm, dành cho nó một tình yêu mãnh liệt, chân thành mà không màng được đáp trả. Đó là thơ. Trong bài viết này, tôi không phân tích thơ anh hay, dỡ, huyền ảo hay vi diệu mà qua mỗi bài thơ, tôi được gợi lên nhiều điều, tự hỏi điều gì đã khiến anh tìm đến thơ. Tôi đoán định, suy diễn rồi không dừng được, hỏi thẳng anh. Nhà thơ trải lòng:

“Không thể gọi tên chính xác nhưng có lẽ chính là những lời ru à ơi, là những câu hát ví của bà của mẹ từ thưở Trần Hóa còn nằm nôi, ẵm ngửa ở một miền quê sông nước vùng đồng bắng Bắc bộ… Sau này lớn lên, tôi được học, được đọc những tác phẩm thơ của các tác giả trong và ngoài nước, dần dần khám phá ra sự diệu kỳ của thơ trong chuyển tải mọi mặt những giá trị của xã hội nhân sinh, vạn vật… Tất cả đã nuôi dưỡng hồn thơ và nuôi dưỡng tình yêu thi phú nơi Trần Hóa! Có thể gọi đó là cơ duyên đưa Trần Hóa đến với thơ ca chăng?”


Nhà văn Trầm Hương tặng hoa nhà thơ Trần Xuân Hóa.

Qua những gì anh bộc bạch, tôi hiểu anh có quá nhiều tố chất, điều kiện cần và đủ của tâm hồn, trí tuệ để trở thành nhà thơ. Nhưng tôi dừng lại rất lâu ở những bài thơ chưa thể gọi là thơ, còn rất thơ mộc, lục cục lòn hòn mà sao rất gợi. Nhiều bài thơ không nhiều mỹ từ mà sao níu lại cảm xúc người đọc. Một thứ cảm xúc chân thành, không trôi theo trang giấy. Để gọi đúng tên, nó là gì, phải chăng chính là lòng trắc ẩn. Xin bạn đọc dừng ít phút để đọc bài thơ “Hai đứa bé”:

“Những lúc làm về tôi qua đầu hẻm nhỏ

Có hai đứa bé ngồi đây

                        Không biết đã bao lần?

Chúng dỗ dành nhau

                         Mà tôi quá đỗi bâng khuâng

Ngồi đây anh chạy kiếm tiền

                         Mua em cây kẹo mút

Có cái bóng bay và hình bụt nữa nè

Ngồi yên đó nghe em - xem chừng lạc mất

Hai đứa bé như đôi chim non - hổn hển đói mồi…”

Đó là thơ hay là tự sự. Và anh quan sát:

“Thằng anh thấy như già trước tuổi

Đứa em còi như thiếu dinh dưỡng lâu ngày…”

Một người lính đã từng cầm súng chiến đấu cho hòa bình như anh sao có thể dửng dưng, sao không đau, không trắc ẩn trước những số phận trẻ thơ cơ nhỡ, lang thang. Anh không cố ý làm thơ nhưng tiếng lòng lên tiếng, chảy thành câu chữ, trở thành thơ, có sức lay động tim người. Buông súng, cởi áo lính, anh trở về đời thường, lao vào kinh doanh. Và rồi anh cảm nhận một cách sâu sắc, thương trường còn khốc liệt hơn cả chiến trường. Có thể anh kiếm được nhiều tiền nhưng vẫn thấy chông chênh, trống vắng (Cà phê xưa):

“… Khổ tôi nhiều em có thấy hay chưa?

Giọt cà phê rơi chiều vào xa vắng

Mơ hồ tôi lãng đãng phía không em

Giấc mơ nào rớt mộng xuống tàn đêm

Giật mình tôi - cà phê xưa - lại đến

Rong ruổi mình câu thơ cũng lênh đênh”

Anh kiến tạo một gia đình hạnh phúc, bên vợ đẹp con ngoan, vẫn không nguôi trắc ẩn số phận những người phụ nữ kém may mắn. Lời ru người mẹ đơn thân vị thành niên cứa vào lòng anh nỗi thương cảm, xót xa (Lời ru bão giông). Lòng trắc ẩn khiến nỗi đau nhân lên nhiều lần, trách nhiệm cũng nhân đôi, qua lời ru đôn hậu, giàu nghị lưc của người bà:

“… Ru con ru cháu ngậm ngùi

Ru mình bằng một nụ cười như nhiên

Tha phương mẹ lạc xứ phiền

Áo cơm lận đận bạc tiền đâu ra

Con đâu sánh kịp người ta

Nên chi phải hiến thật thà cho điêu

Chết trong lòng mẹ ít nhiều

Chỉ trách trời đất còn nhiều bất công

Thôi con nín lại trong lòng

Bật ra nội lực đi trong cuộc đời…”

Là một cựu binh, tôi không ngạc nhiên vì sao thơ Trần Hóa dành phần lớn dung lượng cho tình yêu quê hương, đất nước, nghĩa đồng bào và những người ngã xuống cho Tổ quốc. Anh thổn thức trước cơn bão tàn phá quê nhà, khao khát sự bình yên:

“Bao giờ trở lại những bi bô tiếng trẻ

Chiếu đất màn trời thôi khắc khổ đất Mẹ ơi!

Đã từng cầm súng giữ đất quê hương nên người cựu binh Trần Hóa thâm trầm đi qua vùng đất từng ghi khắc những chiến tích và dấu tích chiến tranh tàn phá. Có lẽ những câu thơ này chỉ có được ở một cựu binh làm thơ, với cái nhìn sâu vào từng thớ đất, nhìn sâu vào rừng đước xanh bạt ngàn, còn ẩn giấu bao ẩn số của hôm qua và hôm nay (Cần Giờ chiều nghe rừng hát):

“… Người ngã xuống đất trường tồn

Rừng thiên thu hóa lính hồn người đi

Chiều nay rừng hát câu gì

Mà nghe trong đất thầm thì tương lai”

Tổ quốc đồng nghĩa với người mẹ, hình bóng mẹ lồng trong đất nước… Những khái niệm thiêng liêng về Tổ quốc và mẹ gặp nhau trong suy tưởng nhiều nhà thơ. Nhưng Tổ quốc và những người phụ nữ trở nên thật giản dị, hồn hậu, thật cụ thể mà vô cùng thiêng liêng, lớn lao trong thơ Trần Hóa (Những người phụ nữ tôi yêu). Với anh, yêu vợ, yêu mẹ cũng là yêu Tổ quốc:

“… Tổ quốc tôi yêu vì bao điều kỳ vĩ

Kỳ vĩ vô song đó là chị, Mẹ tôi

Là vợ chắt chiu tần tảo cả đời

Dành củ, nhường cơm cho chồng con khi đói

Tôi yêu Tổ quốc của tôi”

Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh dẫu không phải là thủ đô nhưng là thành phố trong tim mọi người con nước Việt. Người cựu binh - nhà thơ Trần Hóa đồng nhất thành phố thiêng liêng này cũng là Tổ quốc, nên đau đớn lắm khi dịch dữ tràn vào thành phố, gây bao thàm cảnh mất mát, tang thương. Nỗi đau của một cựu binh không bi lụy mà thật bi tráng cho những câu thơ lên tiếng:

“… Hỏi có nơi nào như Tổ quốc của tôi

Hỏi có nơi nào như thành phố của tôi

Mọi chốn bệnh mọi chốn đau quặn thắt

Bởi chốn nào cũng đều là máu thit

Máu - máu Việt Nam - Thịt - thịt Việt Nam

Dịch - giặc hung tàn Tổ quốc dẫu nguy nan

Trăm lần như thế Tổ quốc này đều thắng

Để trẻ được đến trường hàng hàng thật thẳng

Cờ lại tung bay vang dội - Tiến quân ca

Thành phố của ta - Tổ quốc của ta

Đoàn kết lại đại dịch này quyết thắng

Tôi dừng lại rất lâu những trang thơ anh viết về đồng đội, về người mẹ ở nghĩa trang, với tất cả sự đồng cảm. Tình cảm đằm và sâu ấy, chân thành, da diết, nghĩa tình, trách nhiệm ấy vang lên từ tiếng lòng của một cựu binh (Chỗ bạn tôi nằm):

“… Bạn đã đi xa năm chục năm tròn

Đất nước đổi thay khác xưa nhiều lắm

Còn mãi trong tôi một nỗi niềm sâu thẳm

Chỗ khúc sông nào V nằm lại bạn ơi!

Xin những con thuyền qua đó nhẹ tay bơi.”

Trách nhiệm với đồng đội, với những người hy sinh đi suốt cùng đời anh, với những chuyến đi, tìm về cội nguồn, quá khứ. Anh đi tìm bạn bằng xuyên không, bằng những chuyến đi tìm về chiến trường xưa, băng qua những con đường thiên lý, miệt mài trên những dòng sông, băng rừng, lội suối, trèo non… Những câu thơ tìm đồng đội của Tràn Hóa cứ làm tôi rưng rưng:

“Hôn lên nắm đất ngày về

Chiến trường xưa vẫn hẹn thề nhớ nhau

Lòng mình còn đó nỗi đau

Chưa tìm được bạn - úa nhàu tâm tư.

 

Bước ngang lội dọc sật sừ

Dấu xưa lạc mất bây chừ tìm đâu

Hỏi cây cao hỏi suối sâu

Bà Đen núi đã bạc đầu sương giăng…”

Núi có thể bạc đầu nhưng tình anh dành cho đồng đội không đen bạc. Tình ấy được thể hiện bằng trách nhiệm của người đang được sống hôm nay. Anh đang sống thay cho đồng đội, không thể sống dửng dưng, vô cảm, thấp hèn.

Trần Hóa dùng thơ thay lời tâm sự; thể hiện những cảm xúc, tâm tư, tình cảm, ý chí và nghị lực. Phải chăng thơ là phương tiện để anh kết nối tiểu vũ trụ mà anh cho là nhỏ nhoi của bản thân mình đến với người, với đời; chỉ để đồng cảm, được động viên, chia sẻ, lan tỏa tình yêu thương từ những cảm xúc rất riêng, rất vi tế trong sâu thẳm trái tim. Hiểu được phần nào ẩn số đường đến với thơ của cựu binh Trần Hóa, ta cũng phần nào đoán định được tương lai thơ của anh.

Phường Cầu Kiệu, 20 tháng tám năm 2025

T.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm