TIN TỨC

Có một khúc tình ca dang dở...

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-12-05 08:55:22
mail facebook google pos stwis
3278 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

Cảm nhận về bài thơ DÒNG SÔNG MỘT BỜ của Nguyễn Khắc Thạch:

DÒNG SÔNG MỘT BỜ

 

Có một dòng sông mang tên em,

dòng sông anh tự đặt

xin mùa thu chiếc lá làm thuyền.

 

Có một dòng sông trôi vào lãng quên,

nước trong như nước mắt

điều chưa đến mà sao thấy mất?

 

Có một dòng sông chỉ có một bờ,

phía bờ kia quay mặt.

dòng sông anh không qua được bao giờ...

(Rút từ tập “Dòng sông một bờ”. Hội VHNT Bình Trị Thiên.,1989)

*

1. Tôi đọc “DÒNG SÔNG MỘT BỜ” bằng mờ tỏ mắt nhìn con chữ, bằng trầm chùng lời diễn ngôn, bằng tình cảm xao động bồi hồi của con tim, bằng thức nhận biệt phân của trí não... để rồi từ thẳm sâu lòng mình, dậy lên biết mấy xúc cảm xôi xa... Tôi như tan hòa vào dòng chảy thông điệp của bài thơ, để thấy lại chính tôi,thấy bạn, thấy anh, thấy em... thấy biết bao những kẻ đang yêu, từng yêu, có lúc là anh, có khi là em... thảy như đều hiện diện ở “Dòng sông một bờ” này!...Và rồi, cứ thế...“Dòng sông một bờ” trôi trong tiềm thức của tôi...  trong veo một khúc tình ca dang dở. Buồn... thật buồn... Có quảng gió thoảng, sóng dào cơn dỗi hờn vô cớ. Có đoạn sóng cồn lên tiếc nuối, bất trắc, xót xa. Có khúc nhấp nhô một phía cam chịu lở bồi...Nhưng tôi không thấy ở “Dòng sông một bờ” trạng huống sóng gió phụ bạc, đắng cay, hay phản trắc nào cả!...

Tại sao ư?

  1. Thì đấy, khởi đầu bài thơ là một khổ lẻ ba câu:

“Có một dòng sông mang tên em,

dòng sông anh tự đặt

xin mùa thu chiếc lá làm thuyền.”

Thấy chưa, “Có một dòng sông...”, chứ nào đâu phải dòng sông nào. Nào đâu phải dòng sông của anh, hay dòng sông của em. Đặc định “có một”, nhưng xác quyết“... mang tên em”, thành ra đó như là một phiếm chỉ về một dòng chảy tình yêu đôi lứa, chứ nào phải là Hà, hay là Giang. Nào phải đó là “... sông Mã gầm lên khúc độc hành” mà bảo của Quang Dũng*, hay “...sông Thương thật thương” mà nói là của Hoàng Nhuận Cầm**?!...

“Dòng sông anh tự đặt”, đâu có phải là một lời ghi nhận, để nói rằng câu chuyện sông kia khởi dòng từ anh, với biết bao tâm tình của anh dành cho emmỗi chiều hai đứa cùng ngồi bên nhau ngắm nhìn những cánh buồm xuôi bến?... “Dòng sông anh tự đặt” cũng có thể là những tự bạch, những hồitưởng tâm tư của em được lắm chứ? Rằng là em nhớ “cái buổi ban đầu xao xuyến ấy”, anh bảo dòng sông lấp lánh ánh chiều kia đẹp như tên em, như những xao động lúc nào cũng rộn lên trong trái tim anh...

Và, ta nhớ tình yêu chúng mình... Ta chẳng thể nào quên được đã bao lần ta cùng ước ao, cầm tay nhau bước đến ngôi nhà hạnh phúc lứa đôi. Ta từng “xin mùa thu chiếc lá làm thuyền” để đưa tình yêu ta đến bến bờ mong đợi. Ôi đẹp biết mấy là dòng sông tình yêu đôi lứa mình, với chiếc lá nhiệm màu của mùa thu năm ấy!...

1.2. Khổ thơ tiếp theo:

“Có một dòng sông trôi vào lãng quên,

nước trong như nước mắt

điều chưa đến mà sao thấy mất? ”

Lại vẫn ba dòng thơ lẻ, và cũng vẫn bắt đầu bằng đặc định “có một dòng sông...” như một phiếm chỉ... nhưng giờ thì dòng sông ấy đã “...trôi vào lãng quên” rồi! Đọng lại tâm tưởng giờ đây chỉ còn là một quá vãng buồn, là một dòng “nước trong như nước mắt” chảy miên man trongký ức xót xa, tiếc nuối... cái “điều chưa đến mà sao thấy mất” !...

Ai xót ai?...Ai tiếc ai?... Chả riêng ai cả!... Một cuộc tình đã không như mong đợi; đã chỉ như là một cuộc yêu đương khởi thủy,bất chung; như là một tình yêu đã không thành tựu... thế thôi! Không thấy ở đây nước mắt của anh, cũng không thấy nước mắt của em. Những câu thơ đọc lên chỉ thấy trôi ngược về trong veo một nỗi niềm buồn thương, nhung nhớ... Có xót xa, tiếc nuối, nhưng không cợn đọng trách cứ, bi thương...

... Và chiếc lá nữa,chiếc lá khát khao mộng vàng hai đứa giờ trôi nổi, chìm đắm nơi đâu?!...

1.3. Khổ kết bài thơ:

“Có một dòng sông chỉ có một bờ,

phía bờ kia quay mặt.

dòng sông anh không qua được bao giờ... ”

Vậy là đã rõ rồi! Lại cũng vẫn là đặc định “có một...”, nhưng lần này là “...dòng sông chỉ có một bờ”. Chính sự xác định này càng cho biết rõ ở trên kia không phải một mà đã có nhiều dòng sông từng đã chảy. Thì đó là đây,“...dòng sông mang tên em” nhé, “...dòng sông trôi vào lãng quên”nhé, và cả “...dòng sông chỉ có một bờ” đấy thôi !

Ảo tưởng chỉ để khổ để tủi chứ nào đâu “...dòng sông chỉ có một bờ”, để giận hờn trách cứ “phía bờ kia quay mặt”. Thế mà có đấy! Mà vẫn “có một dòng sông chỉ có một bờ” kia đấy! Ấy là khi sông cạn nước ròng, mênh mông bên đó là bãi dâu, đồng lúa. Và rồi dòng sông cạn cờ ấy khát khao có được bên đó bờ yêu, để dòng chảy tuôn trào.  Nhưng mà không, “...sông chỉ có một bờ” thì có đâu dòng chảy. Và thế là “dòng sông anh không qua được bao giờ”, bởi có thành sông đâu mà qua, mà đến?!

“...Anh không qua được...”, hay em không qua được, thì cũng thế cả thôi, có chi khác lạ đâu!

2.Tôi đọc “DÒNG SÔNG MỘT BỜ” mà cảm phục thi pháp của bài thơ. Tuyệt vời là thủ thuật làm mờ nhòe ngữ nghĩa, để tạo ra tính đa diện mạo cho những góc nhìn.

2.1. Xuyên suốt bài thơ là những liệt kê “có một”... với ngữ nghĩa hiển ngôn trỏ chỉ một đó thôi. Ấy vậy mà lại nhiều chứ không phải chỉ một. Đó là “...dòng sông mang tên em”, là “...dòng sông trôi vào lãng quên”, là “...dòng sông chỉ có một bờ”... mà khi đọc lên, thì sẽ khiến thức dậy trong ta là gì, nếu không phải là liên tưởng đến một nữa, là dòng sông của riêng mình.

2.2. Câu thơ “dòng sông anh tự đặt”, trong ngữ cảnh kết cấu của khổ thơ, đã chỉ ra nghĩa hồi tưởng, đã được định trước từ lối mở bài, mở khổ, bởi phương thức liệt kê “có một” nói trên. Ở trong cái kết cấu ấy, chữ “anh” chỉ ra chữ “em” mà tôi có thể nhất loạt thay thế, hoán đổi trong bài thơ này. Bạn hãy thử mà xem, hãy thử thay thế rồi đọc lên để thấy không thể khẳng định giới của nhân vật trữ tình ở đó chỉ là anh, mà không thể là em, hay ngược lại.

2.3. Thành ra một khi “có một dòng sông mang tên anh”, “dòng sông em tự đặt”, “dòng sông em không qua được bao giờ ”, thì “dòng sông” trong thi phẩm “Dòng sông một bờ” kia, chính là Ẩn dụ về những cuộc tình đôi lứa, về một tình yêu lứa đôi. Dòng sông yêu đương ấy chẳng đã chảy suốt thi phẩm, kể cả khi nó chỉ có một bờ, là gì?! Ai bảo “phía bờ kia quay mặt” là một bội bạc, phản trắc; thì là chưa thấy, chính bởi đó là “...dòng sông chỉ có một bờ”; chưa thấy đó là một ảo ước, về một bờ giả tưởng. “Quay mặt” ở đây nghĩa là không có đối nhân; nghĩa là tự bản thân anh, hoặc em, đã tìm thấy nhưng không phải là người yêu mình.

3. Không chỉ là “dòng sông anh không qua được bao giờ”, bởi “chỉ có một bờ”, vì tình yêu đã không nảy nở; mà còn bởi có khi dòng chảy gặp phải những khúc rủi ro, những đoạn sóng to gió cả, khiến chiếc lá đắm chìm, vì còn mong manh quá... Bài thơ kết cấu ba khổ thơ, mỗi khổ lại chỉ ba dòng thơ, đâu phải vô tình lỗi phép, mà là một dụng công tuyệt kỹ, để chuyển đi cái thông điệp về sự thất bát, lẻ loi, đơn chiếc, như một vô thường của tình yêu. Và sau tất cả, trên tất cả, đó là tôi đã đọc được ở thi phẩm  “DÒNG SÔNG MỘT BỜ” của Nguyễn Khắc Thạch, một TỤNG CA TÌNH YÊU, ở khúc đoạn đẹp nhất, mà tôi gọi là KHÚC TÌNH CA DANG DỞ... ./.

* Từ bài thơ “Tây tiến” của Quang Dũng.

** Từ bài thơ “Sông Thương tóc dài” của Hoàng Nhuận Cầm.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm