TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh

Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-05-29 09:54:17
mail facebook google pos stwis
2088 lượt xem

Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.

Tác phẩm đã khắc họa một con người triết học đơn độc, với những chiêm nghiệm về sự sống và cái chết, với nỗi chơi vơi trong sự hiện hữu của chính mình, khắc hoải về bản ngã và ái ngại về tha nhân. Đọc Người xa lạ bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh để lắng nghe lời thỏ thẻ của cuộc đời phi lý, thấu hiểu về cõi người và để thấy rằng Camus đã tạo ra một thế giới mà trong đó, tồn tại không chỉ là một sự thật tối thượng mà còn là một vấn đề đầy nghệ thuật và triết lý.

Cuộc đời phi lý: Chấp nhận hay phản kháng?

“To be, or not to be?” (W. Shakespeare) – “Tồn tại hay không tồn tại?” là câu hỏi cứ bảng lảng, rập rờn trong từng câu chữ, từng trang viết của Camus. Tác phẩm của ông lột tả chân thật đến rợn ngợp trải nghiệm của những cơn khủng hoảng thân phận của con người trong một cuộc đời phi lý, một xã hội phi lý. Trong tình thế đó, sự từ chối từ cộng đồng hay từ chối chấp nhận chính mình chính là sự triệt tiêu bản thể, tạo nên những thổn thức hiện sinh. Với “cái chết của bản thể”, con người trở thành thứ trùng khít với cái biểu nghĩa (signifier), như thể ký hiệu cho một sinh thể sống vì đã bị tước bỏ hoàn toàn những giá trị người. Bấy giờ, cái chết tự nhiên đối với họ như là đoạn kết tất yếu, là một sự giải thoát khỏi bi kịch của sự vong thân, vong bản. Cuộc kiếm tìm bản thể và khẳng định sự tồn tại, khẳng định quyền được sống và mưu cầu hạnh phúc trong Người xa lạ được kể với một thứ văn xuôi rõ ràng, thoát thai từ nhiều chiều kích của ngôn ngữ, được rèn giũa tỉ mẩn đến độ không còn thấy dấu vết của sự dụng công nghệ thuật nào.

Chủ nghĩa phi lý (absurdism, đối lập với rationalism – chủ nghĩa duy lý) là một đặc trưng của chủ nghĩa hiện sinh. Các nhà hiện sinh coi mọi tồn tại đều là phi lý. Nếu Soren Kierkegaard cho rằng sự phi lý của một số sự thật tôn giáo (religious truths) đã ngăn cản chúng ta tới gần Thượng Đế, Jean-Paul Sartre nhận thức sự phi lý trong các kinh nghiệm cá nhân (individual experiences) thì Albert Camus được nhắc đến với sự “nghịch lý của phi lý” (the paradox of the absurd). Sự hiện diện của con người, ngay từ bản chất, được coi là một hiện tượng phi lý. Mỗi cá nhân chỉ đơn thuần được “ném” vào thế giới, tồn tại tại thời điểm và không gian cụ thể này, mà không có một ý định rõ ràng hay lý do chính xác cho việc đó.

 Đối với Mersault, bản thân xã hội, cuộc đời và những hệ thống của nó không hoàn toàn phi lý. Ngay từ đầu, nhân vật vẫn là kẻ tuân thủ những quy ước cộng đồng khi tham gia vào vòng quay lao động, sinh hoạt, tang ma, ái tình,…, thậm chí đến lúc bị tống giam, kết án, anh ta vẫn biết rõ: mình mang tội. Là nghịch lý của phi lý, nên chính trong sự bình thường ấy, Meursault được khắc họa là một người thậm chí dửng dưng trước tin mẹ của mình qua đời; đi tắm biển với người tình rồi “ngẫu nhiên” phạm tội giết người. Một vụ hạ sát hoàn toàn vô nghĩa, không có động cơ cụ thể. “Bị kết án giết người nhưng xử tử vì tội không khóc trong tang lễ của mẹ thì quan trọng quái gì?” Ngay cả khi đối diện với án tử, Meursault cũng chỉ mong có thật nhiều người tới xem buổi hành hình và chửi rủa.

“… Mẹ đã luôn nghĩ thế và nhắc đi nhắc lại rằng, rốt cục người ta cũng phải thích nghi với mọi thứ” – lời của mẹ Mersault được anh nhớ lại trong thời khắc đã phải ở trong tù như một sự chấp nhận thực tại, chấp nhận sự phi lý của thực tại. Mọi sự phủ định và phản kháng của nhân vật chính, cũng như mọi tội lỗi của anh ta, bắt nguồn từ việc chính anh đã từ chối tham gia vào “trò chơi cuộc đời”. Trò chơi đầy nghiệt ngã và giả dối đó cần có luật lệ để vận hành, nhưng Meursault lại không thể hiểu được chúng. Hoặc có thể anh hiểu, nhưng lòng yêu sự sống chân thật đến tuyệt vọng, chán ngán của anh không thể hoà nhập vào. Với anh, quyền lựa chọn không chỉ riêng ý thức mà còn là một sức mạnh của vô thức, một nguồn động lực mạnh mẽ ẩn tàng. Trong cuộc vẫy vùng khỏi vòng xoáy phi lý của cuộc đời và con người, Mersault lạc lõng và cô đơn ngay giữa cộng đồng người quanh anh. Sự cô đơn của một thân thể trần trụi với nỗi khắc khoải về sự hiện hữu nguyên khôi của chính mình.

Tác giả Giàu Dương

Chọn lựa và tự do

Trong mọi lựa chọn của đời mình, Meursault luôn trung thành với quyền chọn lựa cá nhân. Với anh, mọi sự áp đặt từ bên ngoài trở nên không có ý nghĩa, thậm chí bị phủ nhận bởi sự hoài nghi sâu sắc về mục đích của chúng. Meursault cho rằng chân lý có thể chỉ thuộc về cá nhân, được xây dựng từ kinh nghiệm thực tế, không chỉ là các quy tắc của một tổ chức hay chế độ. Anh chính là một con người tự do tuyệt đối với những lựa chọn của riêng mình.

Có thể nói, sự hoài nghi, chối từ của Meursault đối với những điều được xem là lớn lao của con người: hôn nhân, đạo đức, pháp luật… là biểu hiện cho ý niệm trở thành một bản thể tự do, một khát khao giải phóng con người khỏi những rào luật và định kiến. Hành động phạm tội của Meursault không chỉ đơn thuần là biểu thị tội ác. Bên cạnh sự phản kháng, đó còn là lựa chọn của một hữu thể nhỏ nhoi chống chọi lại với “ách phi lý” của cuộc đời.

Meursault không có đức tin, hoài nghi con người và từ chối cộng đồng. “Ngày hôm nay thế là xong hết rồi, anh phản Chúa ạ”. Anh duy chỉ tin vào tự do và lựa chọn của riêng mình. Thế nên suy cho cùng, khi bị buộc mất đi tự do vì tội lỗi, anh đã nhận ra hình phạt của mình, cái chết đã hiện rõ và bản án đã ở ngay trước anh,, trước cả khi bị kết án bởi phiên tòa. “Tôi từng đọc nhiều rằng, ở trong tù người ta rốt cục sẽ mất đi khái niệm thời gian. Nhưng chuyện đó chẳng liên quan lắm đến tôi. Tôi từng không hiểu làm sao một ngày lại có thể vừa ngắn vừa dài. Dài hẳn nhiên để sống, nhưng đằng đẵng tới độ ngày nọ tràn lên ngày kia thì chúng đã mất đi ý nghĩa. Tôi chỉ còn khái niệm về ngày hôm qua và ngày mai nữa thôi”.

Tự do theo triết lý hiện sinh được hiểu là khả năng lựa chọn chủ quan của cá nhân, không bị ràng buộc bởi bất kỳ quy định nào từ bên ngoài. Đây là sự tự do tuyệt đối, không bị chi phối bởi phong tục, tập quán, giá trị đạo đức, hay các quy tắc xã hội. Trong bối cảnh triết lý hiện sinh vô thần, không có Thượng đế để định hình hành vi hoặc quy định đạo đức con người, tạo điều kiện cho sự tự do tuyệt đối trong mọi tình huống. Meursault là một con người như thế. Anh không đặt bất kỳ nguyên tắc nào lên quyết định của mình. Sự suy ngẫm của Meursault về tự do không phụ thuộc vào những giá trị ngoại vi, mà thay vào đó, anh tìm kiếm sự tự do từ bên trong, gắn chặt với những lo âu, trăn trở của bản thể.

Quan điểm tự do theo triết lý hiện sinh là quan điểm tự do cá nhân cực đoan, không bị ảnh hưởng bởi người khác hay các yếu tố xã hội. Những lựa chọn gắn với tự do của Meursault thường đi kèm với sự cô đơn và trăn trở về ý nghĩa của cuộc sống. Anh không chấp nhận một cái nhìn lạc quan, mà thay vào đó, thường xuyên nhìn nhận thế giới xung quanh một cách bi quan, từ chối ý tưởng về hạnh phúc và một thực tại ngập tràn ý niệm vô nghĩa, trống rỗng.

Memento mori[1] – hãy nhớ mi sẽ chết!

“Hình như tôi đã hiểu ra vì sao đến cuối đời, mẹ lại kiếm cho mình một “bạn đời”, vì sao mẹ lại muốn khởi sự tất cả một lần nữa”… Tôi chỉ còn mong mỏi có thật nhiều khán giả tới xem buổi hành hình và chửi rủa, để tôi không cảm thấy lẻ loi, để mọi điều trọn vẹn”. Mỗi một thời khắc hiện hữu, mỗi một sát na ta sống đều xứng đáng được trân trọng. Chính vì cuộc đời đã phi lý ngay từ khi con người được sinh ra, nên thay vì buông xuôi nó, chống cự nó, ta chấp nhận và “hòa giải” với nó. Những chiêm nghiệm về cái chết trong Người xa lạ cho người đọc cái nhìn vô cùng chân thật về một cõi tha nhân hỗn độn và bất khả tri. Vậy, liệu cuộc sống này có ý nghĩa khi chúng ta bị bao phủ bởi sự phi lý? Meursault đã trải qua những khoảnh khắc hoàn toàn lạc lõng, ngay giữa những con người (tưởng chừng là thân thuộc), trên mảnh đất quen thuộc – quê hương của mình. Khi chấp nhận cái chết như một phần không thể tránh khỏi của số phận, những suy tư của anh ta cho người đọc cảm thức về sự tái sinh bởi cuộc quay về với bản thể sơ nguyên nhất của con người. Dường như tồn tại không gì khác hơn là khả năng quay trở về với bản ngã và khởi nên ý niệm về một thế giới nguyên sơ.

Meursault không chối bỏ cái chết, mà chấp nhận nó như một điều không thể tránh khỏi và nhìn nhận nó một cách hết sức bình thản. Sự nhận thức về cái chết đã dẫn Meursault vượt lên trên xã hội nhưng cũng khiến anh ta trở nên xa lạ với xã hội. Chính trong những thời khắc ấy, Meursault cũng nhận ra sự lạnh lùng của thế giới. Anh ta thấu hiểu rằng, cũng giống như bản thân mình, thế giới này không tránh được sự phán xét, không kiểm soát được những biến cố của cuộc sống con người. Tuy vậy, Meursault không chìm đắm trong tuyệt vọng với số phận của mình. Điều cuối cùng anh ta trải nghiệm “Trước cái đêm đầy sao và những dấu hiệu khác thường, lần đầu tiên tôi mở lòng mình trước sự vô tình êm ái của thế giới. Và, cảm thấy thế giới cũng giống như tôi, như anh em với tôi, tôi thấy tôi đã hạnh phúc và vẫn đang hạnh phúc.”

 Nhân vật tự đặt mình nằm ngoài những vòng tròn của tha nhân, những cuộc đối thoại đầy nhiệt thành của tập thể. Chọn lựa ấy, khiến anh cũng trở thành người vắng mặt trong chính phiên tòa xử tội mình. Cái phi lý, một lần nữa, lại dấy lên bi kịch của tình trạng mất tiếng nói trầm trọng khi con người đã trở nên xa lạ ngay bên cạnh đồng loại. “Theo một cách nào đó thì có vẻ như người ta đang xử lý vụ này mà không có sự tham gia của tôi. […] Song nghĩ cho kĩ, tôi chẳng có gì để nói cả”. Một bản án vắng mặt dành cho một cuộc đời đã tự phân tách mình khỏi một cộng đồng mà anh ta không còn đức tin, không còn cảm hứng và hoàn toàn mất khả năng đối thoại. Phải chăng ấy cũng chính là cái chết, một cái cúi đầu truy điệu cho sự vong bản của một con người.

“Trên đời chỉ có những kẻ được hưởng đặc quyền. Những kẻ khác, một ngày nào đó cũng sẽ bị kết án”. Văn chương Camus vì thế là một trò chơi, một cái cười khẩy, một sự phản kháng, chống trả với những khắc nghiệt của cõi trần ai bằng một thế giới hoang tưởng ngập tràn ý niệm về sự phi lý. Mỗi nhân vật là một âm bản, mỗi trang viết là một lát thái ngang cuộc đời, mỗi câu thoại là một lần nhân vật được mổ xẻ, phơi ra những chấn thương, đau đớn đến kiệt cùng của một kiếp người. Vậy phải chăng đi đến tận cùng cố niệm của sự hiện hữu là một cách buông bỏ triệt để, chữa lành sâu gốc cho những hữu thể chằng chéo những vết xước của cuộc sinh tồn? Hay là một cái cúi đầu truy điệu những bản thể đã vong thân ở phía xa xăm, nơi không còn nhìn thấy nữa?

Song, bạn đọc nên chuẩn bị cho mình một tâm thế vững vàng và một tinh thần tỉnh táo khi đến với vũ trụ của Người xa lạ, nghĩa là không để những phi lý, những ảm đạm của tội lỗi và cái chết trùm lấy tâm hồn. Bởi lẽ bên cạnh phơi lộ lương tâm của con người, đặt sự tồn tại của con người rọi dưới ánh sáng của triết học, chủ nghĩa hiện sinh cũng rất dễ dẫn đến những “con đường lầm lạc”. Chính vì vậy, độc giả cần nâng tầm đón nhận, trang bị cho mình những “màng lọc” để chắt chiu lấy tinh hoa của một tác phẩm vừa gây sững sờ, kinh ngạc, vừa xoa dịu và nâng đỡ con người.

Giàu Dương

[1] Memento mori là một câu thành ngữ, tiếng Latin có nghĩa là “Hãy nhớ rằng ngươi sẽ phải chết”, là một lời nhắc nhở mang tính nghệ thuật hoặc biểu tượng về việc không thể tránh khỏi cái chết. Thời La Mã cổ đại, câu này được nói trong buổi lễ long trọng đón những người chiến thắng trở về. Ngồi sau lưng vị tướng thắng trận trở về là một nô lệ có nhiệm vụ thường xuyên nhắc cho người chiến thắng biết rằng dù vinh quang có lên đến tận mây xanh thì cũng đừng quên rằng anh là con người và anh sẽ phải chết.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm