TIN TỨC

Hốc Chọ của Bùi Sỹ Hoa – Bay lên từ nặng đằm chân chất

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-11-05 10:31:45
mail facebook google pos stwis
1237 lượt xem

THẠCH LỰU

Hốc chọ của Bùi Sỹ Hoa là trường ca hiện đại, đi trên đường biên tự sự - trữ tình hội tụ cảm thức, tinh thần thời đại. Nhưng không hiểu sao, đọc Hốc chọ, tôi thấy mình như được sống trong bầu không khí sử thi, với những câu chuyện kể nối dài hàng đêm bên bếp lửa. Nói chuyện đất, chuyện người của một miền quê cụ thể (xứ Nghệ), Bùi Sỹ Hoa đã thành công mở rộng không gian, thời gian, cuốn người đọc vào trường ca gồm 9 khúc rời, vừa độc lập vừa liền mạch, chữ nối chữ, tình cuộn tình như sông, bay lên từ chân chất nặng đằm quê xứ.


Nhà thơ Bùi Sỹ Hoa và bìa Trường ca "Hốc chọ"

Khởi nguyên của trường ca là trường ca anh hùng, sử thi cổ đại với nội dung kể về những vấn đề lớn của cộng đồng, trạng huống xung đột cao nhất là chiến tranh, nhân vật trung tâm là người anh hùng đại diện cho phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng. Khi cộng đồng đối mặt với vấn đề sống còn, cảm hứng sử thi thường trở lại, xuất hiện những bài thơ dài hơi mang cảm hứng ngợi ca, đủ sức dung chứa và khái quát hiện thực rộng lớn, suy tư về lịch sử. Trường ca hiện đại mang màu sắc mới, gia tăng tính chất trữ tình cá nhân, nhưng vẫn hướng đến khái quát những vấn đề lớn của lịch sử - dân tộc. Xét về phương diện này, phạm vi bao quát của Hốc chọ khá hẹp khi gắn với một địa phương cụ thể, cũng không xuất hiện người anh hùng của cộng đồng, dù có nhắc đến những nhân vật văn hóa (công chúa La Bình, Uy Minh Vương), câu chuyện kể gắn với con người nhỏ bé ông tôi, bà tôi… Nhưng chính điều này làm nên vẻ đẹp độc đáo của Hốc chọ, tác giả chỉ kể những chuyện đời thường nhưng đưa được người đọc vào không khí sử thi cổ xưa.

Bùi Sỹ Hoa dẫn dắt người đọc vào không khí của thiên trường ca khởi từ đêm, ông tôi. Thử đảo vị trí của các khúc ca, chẳng hạn khúc V, bắt đầu bằng Tôi là cá gỗ, lên đầu tiên, không khí sử thi sẽ mất đi nhiều. Đêm là không – thời gian của những câu chuyện kể xa xưa, với ánh lửa thiêng kết nối linh hồn cộng đồng – linh hồn vũ trụ, với sự hiện diện của người già mang tính chất nối kết thế hệ quá khứ - hiện tại. Đoạn I mở ra đêm, đoạn II nhắc về bếp lửa: Bếp lửa mơ quần tụ vai kề vai đượm/ Tiếng tiếng người xưa bập bùng bập bùng đâu đây quanh đây. Từ đêm, ông tôi, thiên trường ca kể về nhỏ bé đói nghèo đất và người mà khiến người đọc như thể sống trong không khí anh hùng, dù chẳng xuất hiện người anh hùng nào. Trong sử thi, thường nhân vật như ông tôi sẽ đóng vai trò người kể chuyện, kể về một người anh hùng của cộng đồng, còn trong Hốc chọ, ông tôi lặng im, nhưng sự hiện diện không lời của ông lại mang màu sắc anh hùng.

Mở đầu trường ca: Đêm đầy sao/ Tiếng vạc nhạt vào khuya loãng/ Ông tôi ngồi xa xăm/ Bóng xiên liếp nhà húng hắng/ Chắt cạn ấm chè xanh/ Hớp cuối cùng ực nghẹn/ Thơm ngọt đầy tràn, đắng chát chưa trôi. Chỉ vậy thôi, ông ngồi uống trà khuya, ho húng hắng, bóng ông lồng vào đêm sao, vẳng tiếng vạc, mang xa xăm trong dáng ngồi yên lặng. Đêm luân phiên đối lập với mai, mai trong tất cả sự khắc nghiệt, bóc tách từng lớp tột cùng khốn khó đất đai, vạn vật, Đêm sao tốt tươi thì Mai nắng hun, gió rang/ Mai sá đất quằn vỏ đỗ/ Trâu gác sừng nằm thở/ Phì phò giấc vũng đằm, Đêm sao rơi rơiMai cháy lựng đôi vai/ Mai tõe chân dốc đứng, Đêm ngàn sao, ngàn sao nhưng Đại ngàn kiệt sức/ Sông suối kiệt sức chảy/ Lá cành kiệt sức xanh/ Rễ siêng kiệt sức rỉ giọt… Bùi Sỹ Hoa nói về sự kiệt sức của vạn vật, dù là sông suối, đại ngàn làm nền, để từ đó người đọc tự hình dung ra sự kiệt sức của người. Vạn vật đã thế, người sống thế nào? Nhà thơ sẽ cho câu trả lời sau đó: Người cấy cày kiệt sức gồng gánh giấc mơ.

Câu thơ như đòn gánh chông chênh thể hiện bản lĩnh nhà thơ, bản lĩnh người, nửa này cấy cày kiệt sức, nửa kia gồng gánh giấc mơ. Đêm đầy sao là dự báo, biểu tượng của giấc mơ nối tiếp. Đoạn sau triển khai gian nan gieo trồng những giấc mơ người, từ cụ thể, thiết thân đến vượt thoát: Giấc mơ gieo trồng dày nhánh sây bông/ Giấc mơ khai khẩn hốc chọ bòn mót/…/ Giấc mơ làm người lương thiện/ Giấc mơ làm thông reo xanh giữa trời… Nhà thơ quay lại với đêm sao: Đêm chi chít những chòm sao mơ/ Cháy kiệt cạn, lại thắp bừng đuốc sáng. Mạch thơ xô nhau chảy, cuộn xoáy, có triển có phục, bộn bề mà nhất quán tài hoa. Giữa đêm mơ và mai thực, vũ trụ mênh mông, một dáng ông ngồi yên lặng để rồi hành động: Ông tôi thở dài nằng nặng/ Rồi vươn tay lấy nước – mát/ mềm/ Rồi vươn vai lấy đá – nóng/ rắn/ Mài dao/ Mài đêm/ Tiếng mài ngọt xớt/ Đêm thâu.

Khép lại khúc I là hành động mài, lặp lại, vô hạn trong không gian, thời gian, ông tôi cũng biến mất, cũng biến mất cụ thể một con người để hình dung ra cộng đồng: Đêm đá mài kiên gan/ Đêm trăng tà hõm vẹt/ Đêm đêm mài sắc. Hành động của ông được kể lại cụ thể, tiết chế mà có sức mạnh như chạm khắc: vươn tay, vươn vai… từ mài cái hữu hình sang mài cái vô hình: mài dao, mài đêm, phải kiên gan thế nào mới khiến đêm trăng tà hõm vẹt. Một cách tự nhiên, người đọc liên tưởng đến cái vươn vai Thánh Gióng, cách bao phen mang gươm báu ra mài dưới trăng, hay mài cả ánh trăng Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma của Đặng Dung… tất cả hội tụ trong dáng mài dao của ông tôi. Nếu sử thi kể về những chiến công anh hùng, những người anh hùng, thì những người bình thường như ông tôi, trong cuộc chiến không tính bằng ngày, bằng tháng, bằng năm, mà vô tận, ngày ngày, đêm đêm, với sự khắc nghiệt không thôi của đời sống, có thể gọi họ là anh hùng chăng?

Trong cả 9 đoạn của trường ca, Bùi Sỹ Hoa đã dẫn dắt người đọc đi từ mảnh ghép này sang mảnh ghép kia của mơ và thực, câu chuyện về nhà tôi, bà tôi, địa danh cụ thể… đặt câu chuyện về tôi ở khúc V – chính giữa – như tình cờ mà có chủ tâm. Từ tôi câu chuyện được viết tiếp, nhưng thật ra tôi không còn là một con người cá nhân – cụ thể trong phép đồng nhất: tôi là cá gỗ, đồng nhất người – vật, trong sự lăn lóc, chấp nhận nhưng không hề cam chịu, đời cá – đời người vì vậy lại tiếp tục là số phận – tính cách chung của một miền đất, và rộng ra, thấp thoáng bóng dáng một dân tộc: Tôi là cá gỗ/ Từ đẽo gọt mà nên/ Từ thẹo thừa bỏ đi mà có/ Tôi phù sa sục bùn mơ cá lúa đằm vai/ Tôi giọt đèn mơ thắp sáng trời sao. Đêm khởi đầu huyền thoại, xuyên suốt hiện thực ngày, thắp giấc mơ sao, trường ca Hốc chọ của Bùi Sỹ Hoa không hề là những mảnh rời mà liên tục khai triển, nhất quán, xuyên suốt, để kết lại là cánh chim bay lên mang tính biểu tượng: Bay lên thoát kiếp người không/ Bay là sống giữa mênh mông đất lành.

Kể lại câu chuyện về con người nhỏ bé, bình thường trong cuộc chiến khắc nghiệt sinh tồn nhưng gợi lên không khí sử thi là thành công của Bùi Sỹ Hoa với Hốc chọ. Thiên trường ca cũng được kể bằng giọng điệu hùng tráng của sử thi với cách sử dụng triệt để phép lặp, phép đối, từ nối từ, câu nối câu xô nhau như sóng. Phương thức lặp tưởng dễ mà khó, nếu không chắc tay sẽ rơi vào trùng lắp, dư thừa, đơn điệu, nghèo nàn, nhưng Bùi Sỹ Hoa đã tung hứng bằng vốn ngôn ngữ dồi dào, chân chất, dân dã mà giàu sức mạnh biểu đạt, đặt đúng chỗ, tiếp nối, bổ trợ, đối lập, khiến tác phẩm rộng mở, khái quát mà vẫn cụ thể, sinh động, âm vang điệu ví dặm, lục bát đậm hồn dân tộc. Hốc chọ của Bùi Sỹ Hoa thực sự là một trường ca được viết chắc tay, đẹp chân chất mà tài hoa trong văn học Việt Nam hiện đại.

Nguồn: Thể thao & Văn hóa

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm