TIN TỨC

Hốc Chọ của Bùi Sỹ Hoa – Bay lên từ nặng đằm chân chất

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-11-05 10:31:45
mail facebook google pos stwis
980 lượt xem

THẠCH LỰU

Hốc chọ của Bùi Sỹ Hoa là trường ca hiện đại, đi trên đường biên tự sự - trữ tình hội tụ cảm thức, tinh thần thời đại. Nhưng không hiểu sao, đọc Hốc chọ, tôi thấy mình như được sống trong bầu không khí sử thi, với những câu chuyện kể nối dài hàng đêm bên bếp lửa. Nói chuyện đất, chuyện người của một miền quê cụ thể (xứ Nghệ), Bùi Sỹ Hoa đã thành công mở rộng không gian, thời gian, cuốn người đọc vào trường ca gồm 9 khúc rời, vừa độc lập vừa liền mạch, chữ nối chữ, tình cuộn tình như sông, bay lên từ chân chất nặng đằm quê xứ.


Nhà thơ Bùi Sỹ Hoa và bìa Trường ca "Hốc chọ"

Khởi nguyên của trường ca là trường ca anh hùng, sử thi cổ đại với nội dung kể về những vấn đề lớn của cộng đồng, trạng huống xung đột cao nhất là chiến tranh, nhân vật trung tâm là người anh hùng đại diện cho phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng. Khi cộng đồng đối mặt với vấn đề sống còn, cảm hứng sử thi thường trở lại, xuất hiện những bài thơ dài hơi mang cảm hứng ngợi ca, đủ sức dung chứa và khái quát hiện thực rộng lớn, suy tư về lịch sử. Trường ca hiện đại mang màu sắc mới, gia tăng tính chất trữ tình cá nhân, nhưng vẫn hướng đến khái quát những vấn đề lớn của lịch sử - dân tộc. Xét về phương diện này, phạm vi bao quát của Hốc chọ khá hẹp khi gắn với một địa phương cụ thể, cũng không xuất hiện người anh hùng của cộng đồng, dù có nhắc đến những nhân vật văn hóa (công chúa La Bình, Uy Minh Vương), câu chuyện kể gắn với con người nhỏ bé ông tôi, bà tôi… Nhưng chính điều này làm nên vẻ đẹp độc đáo của Hốc chọ, tác giả chỉ kể những chuyện đời thường nhưng đưa được người đọc vào không khí sử thi cổ xưa.

Bùi Sỹ Hoa dẫn dắt người đọc vào không khí của thiên trường ca khởi từ đêm, ông tôi. Thử đảo vị trí của các khúc ca, chẳng hạn khúc V, bắt đầu bằng Tôi là cá gỗ, lên đầu tiên, không khí sử thi sẽ mất đi nhiều. Đêm là không – thời gian của những câu chuyện kể xa xưa, với ánh lửa thiêng kết nối linh hồn cộng đồng – linh hồn vũ trụ, với sự hiện diện của người già mang tính chất nối kết thế hệ quá khứ - hiện tại. Đoạn I mở ra đêm, đoạn II nhắc về bếp lửa: Bếp lửa mơ quần tụ vai kề vai đượm/ Tiếng tiếng người xưa bập bùng bập bùng đâu đây quanh đây. Từ đêm, ông tôi, thiên trường ca kể về nhỏ bé đói nghèo đất và người mà khiến người đọc như thể sống trong không khí anh hùng, dù chẳng xuất hiện người anh hùng nào. Trong sử thi, thường nhân vật như ông tôi sẽ đóng vai trò người kể chuyện, kể về một người anh hùng của cộng đồng, còn trong Hốc chọ, ông tôi lặng im, nhưng sự hiện diện không lời của ông lại mang màu sắc anh hùng.

Mở đầu trường ca: Đêm đầy sao/ Tiếng vạc nhạt vào khuya loãng/ Ông tôi ngồi xa xăm/ Bóng xiên liếp nhà húng hắng/ Chắt cạn ấm chè xanh/ Hớp cuối cùng ực nghẹn/ Thơm ngọt đầy tràn, đắng chát chưa trôi. Chỉ vậy thôi, ông ngồi uống trà khuya, ho húng hắng, bóng ông lồng vào đêm sao, vẳng tiếng vạc, mang xa xăm trong dáng ngồi yên lặng. Đêm luân phiên đối lập với mai, mai trong tất cả sự khắc nghiệt, bóc tách từng lớp tột cùng khốn khó đất đai, vạn vật, Đêm sao tốt tươi thì Mai nắng hun, gió rang/ Mai sá đất quằn vỏ đỗ/ Trâu gác sừng nằm thở/ Phì phò giấc vũng đằm, Đêm sao rơi rơiMai cháy lựng đôi vai/ Mai tõe chân dốc đứng, Đêm ngàn sao, ngàn sao nhưng Đại ngàn kiệt sức/ Sông suối kiệt sức chảy/ Lá cành kiệt sức xanh/ Rễ siêng kiệt sức rỉ giọt… Bùi Sỹ Hoa nói về sự kiệt sức của vạn vật, dù là sông suối, đại ngàn làm nền, để từ đó người đọc tự hình dung ra sự kiệt sức của người. Vạn vật đã thế, người sống thế nào? Nhà thơ sẽ cho câu trả lời sau đó: Người cấy cày kiệt sức gồng gánh giấc mơ.

Câu thơ như đòn gánh chông chênh thể hiện bản lĩnh nhà thơ, bản lĩnh người, nửa này cấy cày kiệt sức, nửa kia gồng gánh giấc mơ. Đêm đầy sao là dự báo, biểu tượng của giấc mơ nối tiếp. Đoạn sau triển khai gian nan gieo trồng những giấc mơ người, từ cụ thể, thiết thân đến vượt thoát: Giấc mơ gieo trồng dày nhánh sây bông/ Giấc mơ khai khẩn hốc chọ bòn mót/…/ Giấc mơ làm người lương thiện/ Giấc mơ làm thông reo xanh giữa trời… Nhà thơ quay lại với đêm sao: Đêm chi chít những chòm sao mơ/ Cháy kiệt cạn, lại thắp bừng đuốc sáng. Mạch thơ xô nhau chảy, cuộn xoáy, có triển có phục, bộn bề mà nhất quán tài hoa. Giữa đêm mơ và mai thực, vũ trụ mênh mông, một dáng ông ngồi yên lặng để rồi hành động: Ông tôi thở dài nằng nặng/ Rồi vươn tay lấy nước – mát/ mềm/ Rồi vươn vai lấy đá – nóng/ rắn/ Mài dao/ Mài đêm/ Tiếng mài ngọt xớt/ Đêm thâu.

Khép lại khúc I là hành động mài, lặp lại, vô hạn trong không gian, thời gian, ông tôi cũng biến mất, cũng biến mất cụ thể một con người để hình dung ra cộng đồng: Đêm đá mài kiên gan/ Đêm trăng tà hõm vẹt/ Đêm đêm mài sắc. Hành động của ông được kể lại cụ thể, tiết chế mà có sức mạnh như chạm khắc: vươn tay, vươn vai… từ mài cái hữu hình sang mài cái vô hình: mài dao, mài đêm, phải kiên gan thế nào mới khiến đêm trăng tà hõm vẹt. Một cách tự nhiên, người đọc liên tưởng đến cái vươn vai Thánh Gióng, cách bao phen mang gươm báu ra mài dưới trăng, hay mài cả ánh trăng Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma của Đặng Dung… tất cả hội tụ trong dáng mài dao của ông tôi. Nếu sử thi kể về những chiến công anh hùng, những người anh hùng, thì những người bình thường như ông tôi, trong cuộc chiến không tính bằng ngày, bằng tháng, bằng năm, mà vô tận, ngày ngày, đêm đêm, với sự khắc nghiệt không thôi của đời sống, có thể gọi họ là anh hùng chăng?

Trong cả 9 đoạn của trường ca, Bùi Sỹ Hoa đã dẫn dắt người đọc đi từ mảnh ghép này sang mảnh ghép kia của mơ và thực, câu chuyện về nhà tôi, bà tôi, địa danh cụ thể… đặt câu chuyện về tôi ở khúc V – chính giữa – như tình cờ mà có chủ tâm. Từ tôi câu chuyện được viết tiếp, nhưng thật ra tôi không còn là một con người cá nhân – cụ thể trong phép đồng nhất: tôi là cá gỗ, đồng nhất người – vật, trong sự lăn lóc, chấp nhận nhưng không hề cam chịu, đời cá – đời người vì vậy lại tiếp tục là số phận – tính cách chung của một miền đất, và rộng ra, thấp thoáng bóng dáng một dân tộc: Tôi là cá gỗ/ Từ đẽo gọt mà nên/ Từ thẹo thừa bỏ đi mà có/ Tôi phù sa sục bùn mơ cá lúa đằm vai/ Tôi giọt đèn mơ thắp sáng trời sao. Đêm khởi đầu huyền thoại, xuyên suốt hiện thực ngày, thắp giấc mơ sao, trường ca Hốc chọ của Bùi Sỹ Hoa không hề là những mảnh rời mà liên tục khai triển, nhất quán, xuyên suốt, để kết lại là cánh chim bay lên mang tính biểu tượng: Bay lên thoát kiếp người không/ Bay là sống giữa mênh mông đất lành.

Kể lại câu chuyện về con người nhỏ bé, bình thường trong cuộc chiến khắc nghiệt sinh tồn nhưng gợi lên không khí sử thi là thành công của Bùi Sỹ Hoa với Hốc chọ. Thiên trường ca cũng được kể bằng giọng điệu hùng tráng của sử thi với cách sử dụng triệt để phép lặp, phép đối, từ nối từ, câu nối câu xô nhau như sóng. Phương thức lặp tưởng dễ mà khó, nếu không chắc tay sẽ rơi vào trùng lắp, dư thừa, đơn điệu, nghèo nàn, nhưng Bùi Sỹ Hoa đã tung hứng bằng vốn ngôn ngữ dồi dào, chân chất, dân dã mà giàu sức mạnh biểu đạt, đặt đúng chỗ, tiếp nối, bổ trợ, đối lập, khiến tác phẩm rộng mở, khái quát mà vẫn cụ thể, sinh động, âm vang điệu ví dặm, lục bát đậm hồn dân tộc. Hốc chọ của Bùi Sỹ Hoa thực sự là một trường ca được viết chắc tay, đẹp chân chất mà tài hoa trong văn học Việt Nam hiện đại.

Nguồn: Thể thao & Văn hóa

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm