TIN TỨC

Mặc khải của nước, lửa &…

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-06-16 18:37:30
mail facebook google pos stwis
442 lượt xem

Văn chương TP. Hồ Chí Minh: Nhà khoa học, nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh luôn có những vần thơ hừng hực sống, đầy ám ảnh. Với bài phê bình "MẶC KHẢI CỦA NƯỚC, LỬA &…", nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế đã mở ra một lăng kính độc đáo, soi chiếu sâu vào nội hàm triết lý, cấu trúc thi ảnh và hành trình tư tưởng của thơ Nguyễn Đức Hạnh qua cặp phạm trù đối lập mà thống nhất: Nước và Lửa. Đây không chỉ là một bài luận về thơ mà còn là một hành trình chiêm nghiệm về thân phận, về những khát khao cháy bỏng và sự chuyển hóa diệu kỳ trong từng con chữ, mời quý độc giả cùng khám phá.
 

NGUYỄN THAM THIỆN KẾ

Tôi là ống cơm lam nướng vụng / Cháy đen rồi còn cố bùi thơm …

Vâng thưa, câu thơ nhuốm sắc tự ngộ của văn nhân Nguyễn Đức Hạnh ngỡ là khiêm nhưng tôi lại thấy đủ sự ngạo, dư tự tin, biết mình từ đâu, mình là ai, mình đang nào và sẽ như thế nào.

Tất nhiên nếu như thuận lòng Thượng đế.

Bởi khiêm tận sẽ đạt tới ngạo tận của hợp dung lửa nước.


PGS-TS, nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh - Đại học Thái Nguyên.

Đại diện cho 95 bài thơ tên KHÁT CHÁY sự hàm ngôn trong thi ảnh cần chúng ta cảm nhiều hơn là phẫu tích như xác phàm, huống là tinh huyết của một tâm thế đa truân, đa sự. Dù ở thể nào thì Nguyễn Đức Hạnh luôn hiển sáng yếu tố Lửa ở suy tư và hành xử mềm của chuyển hoán Nước trong dòng chảy đời sống, ngỡ kỵ khắc mà lại toàn hợp khi thi sĩ phổ phóng mình vô ưu vào vũ trụ nghệ thuật thi ca.

Nguyễn Đức Hạnh-một cái tên của kỳ vọng và khẳng định, nổi tiếng trên mạng, dễ lẫn Hạnh này với Hạnh kia, nhưng một khi đã đọc, đã đụng trong câu chuyện với PGS Tiến sĩ Nguyễn Đức Hạnh thì ta bị ngợp cuốn theo phún xuất dung nham của hỏa diệm sơn ngộn chất sống cần lao, chức phận công chức, miên man thơ văn tầm chương hàn lâm lẫn dân gian.

Và hơn nhất, đấy là zích zắc nồng hậu lấp lánh nỗi bạn, nghiệp nghề lao tác. Điếu thuốc tàn đêm rít tóp. Hào sảng cú vung, khoát, diễn nhịp mở tay mời cả thế giới, với hệ ngôn từ khúc triết, cộng minh chữ sáng, âm sang. Rồi chợt buột rơi vào thế giới tự kỷ hí hoáy bấm điện thoại. Sau năm mười phút tốc ký xong bài thơ, chỉnh một tus mà đọc chói lên những chữ những câu gia tăng năng lượng, chiều kích đối sánh khiến ta không thể không ngẩng lên nhìn người văn một cái.

Hiện văn đàn Việt đội ngũ nghiên cứu và dạy văn chương chốn thâm nghiêm giảng đường, thời kiêm sáng tác, dịch thuật khá hiếm. Tôi có thể kể: Phạm Quang Long, Trương Đăng Dung, Nhật Chiêu, Huỳnh Như Phương, Văn Giá, Nguyễn Đức Hạnh, Đinh Tiến Dũng… và Chu Văn Sơn, Phạm Quốc Ca đã rời văn cuộc. Với Nguyễn Đức Hạnh làm thầy và cũng là đối tượng để các nghiên cứu sinh thực hiện luận án về các sáng tác của mình.

Ngẫu nhiên ông tự khẳng định mình bằng một chuẩn kép.

Luận văn tiến sĩ: "Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965-1975 nhìn từ góc độ thể loại" sau nối thêm công trình: "Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Chu Lai” và “Văn học địa phương miền núi phía Bắc". Hướng dẫn sinh viên làm luận văn tiến sĩ, thạc sĩ con số hàng chục. Ngỡ Nguyễn Đức Hạnh yên vị học thuật tháp ngà, nhưng mấy ai hay bên trong bệ vệ giáo sư kia là con ngựa chứng hoan cuồng với dặm ngàn xanh cỏ, cát bụi trường miên, là chú bé ngỗ nghịch tổn thương chỉ biết khóc nức dưới sao trời, sớm tròn vai anh lớn trước người cha khắc kỷ, là người thầy làm cha sấp sỉ tuổi sinh viên thuở bao cấp ngặt khó, vợ yếu con dại, bất chấp sĩ diện, bán trà chén, chụp ảnh dạo, xe ôm, moi than thổ phỉ, phu vàng và bưởng trưởng đã chạm tay giàu sang bỗng trắng tay sau một đêm.

Đa thân phận xung đột sau áo thụng chùm, dưới mũ hình thoi rủ tua vàng ngất nghểu thì làm sao chức phận nghệ sĩ của Nguyễn Đức Hạnh lại ngậm lưỡi trói tay mình nếu như không cất lời, nếu không vắt kiệt khí huyết gieo chữ nên thi thư. Khổng tước phải múa, bách thanh phải hót, đại bàng căng cánh lộng trời tự do, hoa quỳnh se sẽ nở đêm, hoa sen thắp sắc thả hương ngát đồng…

Từ 2000 đến 2022 riêng với thơ Nguyễn Đức Hạnh in 4 tập: "Núi khát"- Nxb Hội Nhà văn-năm 2000; "Vết thời gian"- Sở Văn hóa Thể thao Thái Nguyên, năm 2014; "Khoảng lặng"- Nxb Đại học Thái Nguyên-năm 2016 và "Thầm"- Nxb Hội Nhà văn-năm 2020. Và năm 2022, vị giáo sư trình bạn đọc tập truyện ngắn “Tiếng chuông chùa Tử Đằng”, sách do Nxb Hội Nhà văn ấn hành.

Một tập sách nội dung đan chen hiện thực và liêu trai, phóng chiếu từ những mảnh cắt mỗi gấp khúc đời sống thực của tác giả và nghiệm sinh văn hóa, hiện thực mà huyền ảo, huyền ảo mà hiện thực, trình hiện trong trường văn sôi trào năng lượng, khiến người đọc cứ phải gồng lên mới theo kịp diễn tiến cảm xúc. Một cách thức lấy thậm xưng trong sự thể hiện cảm tính - xúc cảm của chủ thể để làm nên những thiên truyện ngắn của trường phái biểu hiện.

Và bây giờ chúng ta cầm trên tay tập thơ thứ năm KHÁT CHÁY.

Hệ sinh thái KHÁT CHÁY về lượng có 96 bài thì đã có đến gần ba mươi đề tặng người thân, bạn văn chương và viết trực tiếp về các bậc văn nhân tài danh mà tâm thức ông trọng cảm như: Vũ Trọng Phụng, Văn Cao, Quang Dũng, Lâm Thị Mỹ Dạ.

…Có chị, sông Hương trong hơn, mưa Huế đẹp hơn

Chị đi vắng sen trắng chắp tay niệm Phật…

…Cầm thơ ra sông giặt phơi

Thơ hoá thành lụa trắng

Thắt nơ một bó thở dài…

…Thị trấn bằng hai bàn tay đếm mấy vốc nhân tài ?!

Anh Y Phương tựa lưng vào non nước

Ngắm sơn thuỷ mênh mông gieo một chữ Hoà…

Bản thân cũng được Nguyễn Đức Hạnh đề tặng thơ, với người khác thì có thể, nhưng tôi nghi ngờ mình khó có thể trở nguồn cảm hứng của bất cứ ai. Nên chăng, chỉ là chút xíu xúc tác. Tập hợp gần ba mươi bài thơ, mang đề tặng, chắc cũng tương tự ngọn ngưu bàng mảnh mai gẫy trong bão tuyết tạo cú huých cho Nikolay Vasilyevich Gogol viết Những linh hồn chết. Và để chúng ta thấy Nguyễn Đức Hạnh lụy tình như thế nào. Hơn nữa cũng thêm vai trò chia sẻ ý tưởng và kích ứng không gian thơ Nguyễn Đức Hạnh bùng phát biên độ.

Phần còn lại là những bài sinh diễn, cấu tứ từ đột biến mang tính ngẫu cảm của tác giả trước mỗi tọa độ quen thuộc của vùng địa văn hóa-địa lịch sử Việt Bắc, và quanh quanh Thăng Long. Bài thơ ghi dấu xê dịch của tác giả xa nhất về phía Nam là Phú Yên.

KHÁT CHÁY bị chi phối bởi hai yếu tố: Lửa-Nước.

…Nửa cho hồ bài ca mang tên Khát

Có nóng mặt trời? Có lạnh mặt trăng?...

…Bông hoa chuối rừng vừa cháy, vừa trôi…

…Sông co ro. Người xuýt xoa. Lửa hồng thương kêu lép bép

Phố đêm nghiêng thõng tiếng đàn bầu

Ao chuôm thở làn khói ấm

Cá lỡ hẹn hò nên lặn rất sâu….

…Yêu như là lửa đỏ

Thương như là than hồng

Thơ như là củi nỏ

Cháy rồi tan âm thầm …

Yếu tố nước-thủy hầu như xuất hiện đều đặn trong từng bài. Những từ khóa: Mưa. Sương. Mưa rào. Mưa phùn. Mưa sương. Sóng. Bến. Nước mắt. Lệ. Giọt buồn. Giọt vui. Nước trong. Dòng đục. Dòng hồng…

…Mưa trong veo ứa hai giọt thật trầm…

…Buồn thì ra bến

Thả mình trôi khoả đục tìm trong…

…Bến sông trong phưng phức

Bắp chân con gái thơm hồng…

…Sương muối bay mặn giấc chiêm bao…

…Hồn phố cổ như bình rượu quý hạ thổ mấy trăm năm

Xin đừng cho thêm ngũ xà lục xà vào nữa….

…Va vào mưa thủy tinh - mưa vỡ…

…Mật ngôn của cánh cò cõng mưa đá đến giấc mơ...

…Bầy lá khô tấp tểnh giỡn sương…

…Lệ đã chảy thành sông tiếng gọi…

Thơ là loài cây uống nước mắt mà xanh…

…Sương Lương Sơn tan không dỗ nổi…

…Sông Đà ôm em và anh kệ vầng trăng khuyết

Đập uống say nằm khóc một mình

Vạn con sóng vọt lưng trời tan vỡ

Con sóng nào cũng dáng lưng ong…

…Sông Cầu thức đòi uống ban mai cùng mắt biếc...

…Ai cùng tôi ngậm mưa

Em kéo nón che một mùa sen nở

Thở thật buồn sen bay trắng ngàn mây…

Yếu tố lửa-hỏa chính là giọng điệu hực ngụt thăng hoa. Đã bùng thì cháy đến kiệt. Cháy hết nguồn cảm xúc thì tự dừng. May rủi tùy thuộc vào nguồn cung năng lượng là phân ra hạt nhân, dầu sáng, xăng, than đá, củi, phong điện, quang điện.

…Thành thi nhân

Lửa hồng đố gì? Bối rối củi khô…

…Người đổ đèo vẫn phẻn dao lấp loáng

Mỗi bước chân rung nghịch một mặt trời…

…Lấy tóc bạc mà buộc

Sợi nắng vàng hân hoan…

…Anh là củi còn em là lửa

Đêm đêm che gió nhóm yêu thương

Có than hồng bùng trong vất vả

Khoai nướng cứ thơm…

…Thiêu nửa chừng núi đá rưng rưng

Người như đá tay cầm tay thành lửa…

…Ngòi bút tự khêu vào tiếng gọi thầm trong mắt

Chảy ròng ròng qua mấy mùa sen

Về cấu trúc, thì một số bài thơ có sơ đồ hình thang ngược, như một bông pháo hoa, bung sắc mình hết cỡ ngay từ giây phút khởi đầu rồi từ từ thu nhỏ mình đến kết thúc. Mở đầu bằng những câu thơ nối liền hàng như văn xuôi, liền cả một khổ. Cấu trúc này phản ánh đúng với trình cảm xúc khi đạt tới ngưỡng bùng nổ thì ngôn từ hay các mảnh vỡ của vụ nổ văng tóe cần một không gian lớn hơn kích cỡ truyền thống. Như là một cách chiếm lĩnh người đọc, tức thì. Đây thực sự là một điểm cộng, một đóng góp cho cấu trúc thơ đương đại hay chăng?

NHỚ VINH

Lửa đỏ trong nước lạnh. Tuyết trắng gói đa tình

Giấu thép trong lụa bạch. Lấy bão làm dây buộc tóc xinh

Cửa Hội nghiêng chiều đổ sóng vào anh

Mai xa rồi cắn sông lâu chút nữa …

 

ĐÊM CO SẦU

Hồn nhiên và trầm mặc. Nghìn tuổi hay không tuổi?

Gió ôm nhau sóng sánh thành đèo…

Phác thảo miền trung

Miền Trung - khớp nối hai thanh tà vẹt rung bần bật hành trình Bắc - Nam

Ngựa thồ phù sa sông Hồng nguồn cội

Rơi ngọt lành đẫm phá Tam Giang…

Tiếng trống chèo, quan họ, chầu văn…

Những loài nói thầm thường đau sâu

Sông nói bằng sóng. Ngôn từ vừa vỡ vừa trôi

Rừng nói bằng gió. Lá vừa thảng thốt vừa rơi

Trên quả đất này

Loài nói thầm đau sâu?

Loài nói to quên mau?

Tài năng và lòng trắc ẩn chắp đôi cánh đại bàng cho ngựa trắng Pegasus như muôn người thơ đúng nghĩa, Nguyễn Đức Hạnh bật thốt những câu thơ về mẹ, về em, về thân phận ngoài kia không tròn, nhẹ như không mà trĩu nặng.

 

MẸ ƠI, CON NHÓM LỬA RỒI

Sưởi cho bao mùa đông lăn thành giọt lệ…

… Xưa con nghịch, cha đánh, mẹ che

Không bao giờ khóc

Sáng mai đếm vết hằn lưng mẹ…

…Em là muối ớt

Tôi chấm tôi vào cùng trăm năm

Ngon cũng khóc mà đắng cay cũng khóc…

… Bác bán dao mài nỗi buồn ế khách

Tuổi tác trôi qua mặt đá mài

May còn đuôi mắt sắc

Mài ngực chị bán xôi...

…Gương mặt em buồn như trăng muộn

Cầm rổ cá ngồi vừa muốn rán vừa thương…

…Ô cửa cũ níu nụ cười ngày ấy

Mỗi bông phượng hồng cất giấu một đôi môi

Tóc con gái thành cầu vồng đen cong về hồi ức

Ai gọi ai mưa trắng xóa lối về…

…Em lấy chồng rồi hay khóc

Mang củ mài đi nhận củ nâu về

Sông đổi dòng ở chỗ ném bùa mê…

…Em thành sương khói

Về ôm sông đong chiều…

…Mưa suốt đêm không ướt nổi tiếng chim

Mổ thật khẽ vào thương nhớ…

…Em vẫn như sao mai ngơ ngác

Mới khẽ cười lệ đã vỡ làm đôi

KHÁT CHÁY- lật trang nào cũng gặp câu chữ phê choáng, thán phục cho sự thăng hoa của chuỗi ngôn từ giao hoan trong trường liên tưởng. Dư thời gian và kiên trì cho dẫn trích những câu thơ hay, nhưng tôi e, nếu dẫn hết ra đây sẽ là sự bất nhã với bạn đọc.

Chốt, xin trở lại với tự vấn của tác giả về thân phận và trách nhiệm nghệ sĩ.

…Anh nắng lửa gió Lào gặp em cát trắng

Có một ngày cát trắng hoá pha lê…

…trong một quả dừa khô

Còn một câu thơ cũ…

…Một đời rượu mặn không?!

Trong từng vết gỉ gãy…

…Người dưới biển tính chuyện lên rừng

Người trên núi mơ về sóng bể

Đi tìm cái mới cả đời đã thấy chưa?

Mặt nhà văn nhàu nát ngắm mặt nhà thơ

Mặt nhà thơ lơ ngơ ngắm mặt nhà phê bình nom như mặt sĩ quan cảnh vệ

…Trong ổ rơm nhìn trăng gầy quá

Giống quả ổi cuối cùng trên cây mùa đông

… Vách đất nứt ma về lay cửa mục ..

Con chó buồn cắn tiếng rõ, tiếng câm…

…Pha ấm trà rót xuống đá rưng rưng

Ta bắt gặp nồng ngột Trần Mạnh Hảo, cảm xúc mượt đau Hồng Thanh Quang, ngỡ rằng thơ đến vô không và cách xây dựng thi ảnh bội nghĩa, đa thanh của Nguyễn Quang Thiều, nhưng biệt sắc Nguyễn Đức Hạnh bồng sôi, ào chảy.

Trời phú khả năng ứng tác nhanh, dẫn đến cảnh huống chẳng phải lúc nào cảm xúc ngôn từ cũng song hành với lí trí văn hóa, nên không nhiều lắm những bài trọn vẹn, thỏa mãn. Đọc xong vẫn ấm ức, thiếu hụt vì vừa dứt ra khỏi cơn thăng trào, ta vẫn tiếp đợi bùng nổ. Trong dịch chuyển, sự khiếm này lại là nét duyên thơ Nguyễn Đức Hạnh?

Hỡi ôi, đúng thôi, ngẫm trước tác của các thi bá đông tây kim cổ, có bao nhiêu tác phẩm toàn bích. Dường như bao nhiêu kiến văn, vốn sống phong nhiêu bày sẵn, văn nhân hào sảng tiêu sạch vào CHÁY KHÁT.

Mạo định, KHÁT CHÁY là tác phẩm quan trọng nhất hiện nay trong vận trình sáng tạo của Nguyễn Đức Hạnh - văn nhân “bảo học” xứ ngàn Việt Bắc đỉnh độ sung chiếu văn mặt báo. Tôi trội bật cảm giác rằng, trước mỗi cấu tứ thi ảnh ập đến, Nguyễn Đức Hạnh vứt hết kiến thức nghiên cứu thơ ca bấy lâu, từng ngày vẫn truyền dạy sinh viên xuống Bến Tượng, chỉ một sục sôi triết máu hòa rượu để làm chữ, như viết bài thơ cuối cùng.

CHÁY KHÁT- tập thơ có đóng góp quan trọng về cấu trúc ở một số bài, cũng như nghệ thuật ngôn từ trong trường đối sánh thi ảnh được phóng chiếu làm mới, vượt qua cái xơ sáo bởi hụt nghiệm sống, hụt cảm xúc tràn lan các tập thơ hiện hành. KHÁT CHÁY dễ chinh phục số nhiều vì mới lạ cảm xúc, nhưng để thấu CHÁY KHÁT thì lại không nhiều. Nếu bạn là một người sáng tác, hay nghiên cứu văn học, thì cần phải đặt nó ngay ngắn lên bàn, vịn vào phép đọc lý tính hay suy cảm đây? KHÁT CHÁY đã định vị thế biệt sắc, không chỉ riêng cõi thơ Việt Bắc mà cả ở nền tảng thi ca Việt hiện tại.

…Ta nửa dại nửa khôn

Thơ vừa hay vừa dở…

…Nếu đời như mình muốn

Thì trời đâu bão mưa?!

Văn nhân Nguyễn Đức Hạnh cũng như muôn bao người Việt yêu thơ bị “giời đày làm thơ” đã giận hờn thơ, tức tưởi trước thơ. Nhưng nếu không có thơ người Việt sẽ ra sao nhỉ? Nguyễn Đức Hạnh sẽ thế nào, nếu thơ quay lưng với ông? Ông bỏ lửng thơ? Mới sơ hình dung, tôi đã giật mình. Biết CHÁY KHÁT rồi tôi mới hiểu mình sẽ nhạt nhèo đi nhiều lắm nếu như không gặp CHÁY KHÁT.

Đã buông bỏ lá rầu rầu

Để vòm cây ngát một màu bình an

Còn vương một lá ngỡ ngàng

Vừa khô vừa ướt bởi ngàn câu thơ.
 

Việt Trì. 3.9.2024,
N.T.T.K

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm