TIN TỨC

“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-09-27 13:08:10
mail facebook google pos stwis
949 lượt xem

 

Nguyễn Phương Hà

         

(Đọc tập thơ “Nắng dậy thì” của Nguyễn Ngọc Hạnh, Nxb Hội Nhà văn, 2024)

 

Nắng dậy thì  là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.

Vùng nhớ thương của Nguyễn Ngọc Hạnh là cái làng đầu nguồn sông Vu Gia, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Anh đã viết về quê hương bằng những hình ảnh rất thật, gắn với nỗi buồn thương trong cuộc đời. Quê hương là nơi người thơ đã sinh ra trong khổ nghèo lam lấm: “Nhớ mà thương một thời thơ dại/ Nơi tôi sinh ra bụi chuối sau vườn/ …/ Mẹ ấp ủ tôi tay bùn chân lấm/ qua bao năm tháng cơ hàn” (Vô thường). Đó là dòng sông quê với hình ảnh chiếc đòn gánh tre nhọc nhằn đời mẹ: “Tảo tần đời mẹ chân quê/ Bao năm lặn lội đi, về triền sông/ Nón che không hết mùa đông/ Phố che không hết nỗi buồn trần gian” (Lục bát qua sông). Người cha nhọc nhằn ngày tháng mưu sinh giữa cuộc đời đầy trắc trở: “Cả một đời lội suối trèo non/ Cha gánh hết muôn phần khổ nhọc” (Cha). Ấy là nơi người thơ quặn thắt cõi lòng, tận cùng nỗi đau: “ai dán tiếng cười con tôi/ rong rêu bia đá/ lấp lánh hoàng hôn giữa nghĩa trang” (Viếng mộ con), là nơi thấp thoáng bóng hình người tình phận bạc: “Em đâu phải hồng nhan/ Mà trời trao phận bạc/ Thơ tôi không làm thêm nhan sắc/ Em cứ lặng thầm mà chín vào trong”. Quê hương in đậm trong tâm trí nhà thơ, có lẽ vì phải xa quê quá sớm nên trong tâm hồn giấy trắng chỉ có hình bóng quê hương: “Xa quê từ thuở nằm lòng/ Mấy ai biết được đục trong đôi bờ/ Chỉ còn hoài niệm tuổi thơ/ Qua dâu bể chẳng bao giờ nguôi quên” (Nói gì đây sông ơi). Hình ảnh dòng sông quê hiện lên trong tâm tưởng: “Con đò năm ấy còn không? Mà sao bến cũ vẫn trông theo người/ Bây giờ tôi với mình tôi/ Dọc bờ sông nắng bên đồi mong manh” (Hôn mình trên sông). Con sông trôi xuôi, thời gian đời người trôi xuôi về phía xa xăm mà tâm hồn thi nhân cứ ngược chảy về quá khứ, về với tuổi thơ, với dòng sông, bến nước cánh đồng thơ dại. Quê hương là chốn đi về, là nơi nương tựa của tâm hồn lúc ta đớn đau hay thất vọng, bởi vậy, khi xa quê hương đất nước, ở tận bên trời Âu Mỹ, nhà thơ càng thấm thía niềm quê: “Nửa vòng trái đất thì xa/ Mượn câu lục bát quê nhà nương thân” (Nương thân). Viết về quê hương cũng là về tình người đấy thôi. Tình người tạo nên cái hồn quê sâu thẳm, hồn sông, hồn núi, cũng như chiếc đòn gánh cong và đôi dép vẹt mòn của mẹ góp nên cái hồn của chợ quê…

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh mang âm điệu buồn sâu thẳm. Buồn bởi những ẩn ức, thương tổn tâm hồn: Tuổi thơ khốn khó, nghèo đói và chiến tranh loạn lạc; nỗi nhọc nhằn, vất vả mưu sinh của cha mẹ; nỗi chia ly trong cuộc đời, nhất là nỗi đau chết lòng vì mất con. Cảm thức chia lìa, thất lạc, hư hao đã tạo nên những lớp sóng cảm xúc, dường như mọi hình ảnh sự vật đều chuyển động âm thầm theo chiều phôi phai ấy. Không phải ngẫu nhiên khi ta gặp những điệp khúc “dạt trôi” day dứt mãi: “Vầng trăng hư ảo trong chiều/ Dạt trôi và dạt trôi nhiều dạt trôi” (Tôi ngồi một bóng). Người thơ xa quê, xa làng, xa sông, xa cha mẹ, anh em, bạn bè, chia ly với người tình, đến giấc mơ cũng trôi lạc: “Xa rồi, thôi nửa giấc mơ qua” và con người lạc trôi như một chiêm bao: “Chắc gì có tôi trên đời/ Chẳng qua là giấc mơ trôi cõi người”. Hình ảnh tương phản: “Con sông trôi xuôi mà lòng tôi chảy ngược” cũng là đẩy ra cách xa nhau vời vợi. Người mẹ yêu thương đã mang theo chiếc “đòn gánh cong” và đôi dép vẹt mòn đi mãi về miền mây trắng. Khi người thơ cảm nhận được sự hy sinh thầm lắng của cha thì “tóc con bạc như tóc cha ngày ấy”, đã quá muộn để nói lời tri ân. Dòng sông quê trở thành một sinh thể có hồn cũng mòn mỏi, hư hao, gợi cảm giác lạc trôi: “Một mình đứng tựa bơ vơ/ Sông xưa đã lấp đôi bờ cỏ khô/ sông giờ cạn hẹp thành ao/ người về đâu biết ngõ nào là quê”; “Tôi về trong một chiều mưa/ Còn đâu cả tiếng đò thưa vắng dần”… Chỉ trong một bài thơ đã thấy hàng loạt hình ảnh gợi sự lạc trôi, chia lìa: “con thuyền trôi xuôi/ lòng tôi ở lại”, “bồng bềnh trôi/ một mình mẹ/ trôi/ đàn con lưu lạc/…/ rồi mai đây biết phiêu dạt về đâu?”, “đêm xa làng”, “phút xa quê”, “tôi đâu biết/ cái ngày ly biệt ấy/ ngày anh em tôi tan tác lìa đàn”, “đàn chim lạc bầy từ đó cũng ly tan”(Bếp lửa chiều quê).

Cảm thức lạc trôi là biểu hiện của cái “tôi” cô đơn bản thể, càng khát khao gắn bó càng thấy ngập tràn đơn côi. Trong hành trình bước tới “phía sau”, phía sông quê, phía quá khứ nay chỉ còn là kỷ niệm ấy, người thơ chỉ đi một mình. Anh muốn tìm về thân thương, muốn tâm tình với cuộc đời, với sông quê, làng quê, với tình thân, bè bạn, với “em”, nhưng tất cả như dần khuất lấp, xa vắng. Rốt cuộc, anh đối diện và tâm tình với chính mình, chất vấn bản thể. Những hình ảnh chỉ nỗi cô đơn xuất hiện với tần suất khá dày trong tập thơ: “Một mình say với mình thôi”, “một mình/ đứng tựa bơ vơ/ sông xưa/ đã lấp đôi bờ cỏ khô”, “Nửa tôi đơn lẻ câu thơ lạc vần”, “Bây giờ tôi tôi với mình tôi”, “Biết đâu tôi lại ru tôi một mình”, “rồi ngày qua đêm sẽ trôi/ mình tôi ngồi lại cùng tôi giao thừa”… Phải chăng, cô đơn là đặc trưng cuối cùng của thân phận con người, là hạt ngọc nhân bản giúp nhà thơ ý thức được sự tồn tại và khẳng định bản ngã, khẳng định cá tính sáng tạo của mình. Nỗi buồn trong thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nhiều cung bậc cảm xúc giữa hiện thực ngổn ngang, bất toàn của đời sống. Nhưng nỗi buồn ấy cũng chạm đến đặc tính chung phổ quát của con người. Nỗi buồn không bi luỵ, không làm người ta chán chường gục ngã mà có sức thấu rọi, thanh lọc tâm hồn. Nỗi buồn, giọt nước mắt được sẻ chia và thăng hoa thành cái đẹp: “Giọt nước mắt giờ đâu còn vị mặn/ Mà rạng ngời như giọt lệ giữa không trung”.

Có thể cảm nhận, những chấn thương tinh thần từ tuổi thơ đã đi theo suốt cuộc đời thi nhân, gợi buồn đau và nỗi cô đơn, góp phần định hình một chất thơ riêng, một giọng thơ riêng Nguyễn Ngọc Hạnh, không thể lẫn với người khác. Trong thơ anh, chất thơ nhuần nhuyễn tình cảm và lý trí, tạo nên giọng điệu trữ tình thật sâu lắng và đầy suy tư. Không mấy người trải lòng mình chân thật và sâu đậm đến thế. Chính nhờ cảm xúc thật sâu, thật chín mà những suy tư, chiêm nghiệm trong thơ cứ nảy ra tự nhiên, khái quát mà đầy hình ảnh cảm xúc chứ không khô khan, giáo điều. Người đọc sau phút xúc động phải dừng lại, lắng mình, đằm sâu suy ngẫm cùng thi nhân. Nhiều người còn nhớ mãi câu thơ đã thành thương hiệu Nguyễn Ngọc Hạnh: “Xưa tôi sống trong làng/ giờ làng sống trong tôi” (Làng). Ta dễ tìm gặp những câu thơ chứa đựng ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như thế: “Chưa đi qua hết đò ngang/ làm sao hiểu đời sông dọc”(Hạnh phúc), “không còn thì thôi xin đành/ người ơi tôi cúi hôn mình trên sông” (Hôn mình trên sông),“Mai sau con lớn nên người/ Biết đâu tôi lại ru tôi một mình” (Lời ru). Tình yêu là cảm xúc phổ biến của nhân loại đã được thể hiện rất phong phú trong nghệ thuật, vậy mà người đọc vẫn có cảm nhận mới mẻ từ những chiêm nghiệm của nhà thơ: “Yêu là được bao điều đã mất/ và sẽ còn mất nữa, để yêu” (Yêu)…

Thơ Nguyễn Ngọc Hanh, lục bát hay thơ tự do đều rất giàu nhịp điệu. Nhịp điệu ấy không chỉ là hình thức mà chính là nhịp đập của con tim, nhịp rung của tâm hồn, nhịp điệu của những cung bậc cảm xúc. Nhà thơ Heinrich Haine cho rằng: “Tâm hồn là điềm mách bảo vần luật…Chỉ có vần luật bên trong hoà hợp với nhịp đập của con tim là có ý nghĩa”*. Nhờ thế, thơ anh tìm được sự đồng cảm đồng điệu, tạo được những rung ngân trong lòng người đọc. Bài Thu rơi có âm điệu rất đặc biệt: Âm điệu chơi vơi, gợi lên trạng thái tàn tạ, lạc trôi, được tạo ra nhờ hiện tượng điệp thanh bằng cuối dòng thơ và điệp vần “ơi”. Tất cả dường như đang chuyển động rất nhẹ, rất êm: Thu rơi, thu trôi, chiều trôi, thu xa, lá rơi, em rơi, tôi rơi: “Mưa cong vút lên trời hoàng hôn/ Chiều chậm trôi mờ xa vơi đầy/ Treo bài thơ trên lưng chừng mây/ Như là em rơi trong thu gầy…”. Nguyễn Ngọc Hạnh không ồn ào cách tân mà thơ độc đáo, không làm xiếc ngôn từ mà đầy sáng tạo. Nhà thơ đã bồi đắp ý tưởng mới mẻ vào những hình ảnh quen thuộc, bình dị. Đó là một “đôi dép mẹ” đã bao năm rồi lại “thương mòn đời con” hay một “bụi chuối sau vườn” nơi nhà thơ đã sinh ra. Bài Chỗ ướt mẹ nằm phát triển tứ thơ độc đáo. Thời thơ bé trong nghèo khó, mái tranh dột nát đêm mưa lạnh, mẹ “chừa bên ráo để con lăn” thì đã quen thuộc rồi, nhưng đến khổ thơ: “Mẹ nằm đây giữa núi non cao/ rừng đã khép một đời dông tố/ chiều tháng ba trời đầy gió bão/ chỗ mẹ nằm ướt sũng cơn mưa” thì lại là một bất ngờ. Câu thơ biểu hiện sự thấu cảm tận cùng những hy sinh thầm lặng của người mẹ, tận cùng nỗi niềm của người con.

Nét nổi bật của thơ Nguyễn Ngọc Hạnh là ngôn từ giàu hình ảnh gợi tình, gợi cảm. Nhà thơ kết hợp nhiều phương thức chuyển nghĩa nhuần nhuyễn đến mức tự nhiên, tưởng như không phải là những nỗ lực dụng công. Đặc biệt là thủ pháp tương phản: “con sông đầu nguồn trôi xuôi/ mà lòng tôi chảy ngược” (Lạc mất đường về); “Giếng xưa sâu mà đời sắp cạn/…/“Sông chảy đời sông qua bao nhiêu bến/ Mà đời người chỉ một bờ thôi” (Giếng xưa), “Khi tóc bạc mới thương ngày thơ bé/ Để bây giờ yêu muộn thuở còn xanh”(Muộn), “Yêu là được bao điều đã mất”(Yêu). Tác giả lạ hoá bằng những kết hợp từ bất ngờ thú vị: “chiếc đòn gánh cong đời mẹ”, “Chiếc nón cong vành dâu bể”; “mái chèo cằn cựa đến xa xăm”, “Bất chợt nhớ ngày xưa đến lạ/ Mơ được một lần làm mẹ để sinh con”. Đôi khi là một so sánh đồng nhất: “Lòng tôi là mạch nước trong/ Trôi xa bốn biển vẫn mong ngày về” (Gửi quê nhà), “Tiếng gàu khuya rơi như tiếng khóc” (Giếng xưa), hoặc so sánh tương liên: “chúa ra đời từ trong máng cỏ/ tôi tái sinh từ kiếp bèo trôi” (Nguyện cầu). Từ một hình ảnh ca dao quen thuộc, nhà thơ đã phủ lên một lớp nghĩa mới bằng cách gợi liên tưởng: “Lặng lẽ với giếng sâu/ Xin nối sợi dây gàu cho lòng bớt cạn/ Tôi múc ánh trăng về làm thơ/ Rồi tri âm em mà bầu bạn” (Nhớ). Thảng hoặc ta gặp những ẩn dụ siêu thực, hình ảnh ảo giác, làm cho hình tượng thơ lung linh: “Tôi gối đầu lên tháng chạp/ Nằm co ro/ nghe tiếng mưa buồn/ Chiều lấp đầy đêm hao khuyết/ Vầng trăng rơi/ sáng rực hoàng hôn” (Trăng phía thượng nguồn), hoặc: “bay mất cả cái đêm thập thò định mệnh/ tôi thấy linh hồn mình/ bước qua hố thẳm/ rơi từ trên cao xuống đáy vực sâu” (Chiêm bao), vv…

Dòng sông quê, dòng sông thơ Nguyễn Ngọc Hanh vẫn miệt mài chảy, không réo rắt ngân vang mà âm thầm vỗ sóng. Làng quê, sông quê đã trở thành một phần máu thịt trong anh. Không có tình quê da diết, đậm sâu thì làm sao có được những vần thơ neo đậu lòng người bền lâu như thế. Và hơn hết, đó là một nỗ lực không ngừng, là ý thức vượt lên mình của một nhà thơ tự trọng, tài hoa và đầy khát vọng sáng tạo.

_________________

*Theo: M. Arnauddov, Tâm lý học sáng tạo văn học, Nxb Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 528

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm