TIN TỨC

Nguyễn Trãi và một mỹ học mùa xuân!

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-04-17 23:01:32
mail facebook google pos stwis
2294 lượt xem

Với các nhà tư tưởng lớn, chất vàng triết lý luôn lấp lánh phát sáng qua mỗi hình tượng, ngôn từ mà họ sử dụng. Nguyễn Trãi kiệt xuất là một trường hợp như vậy. Tư tưởng mỹ học của ông qua chủ đề mùa xuân trong thơ Nôm phải được coi là điểm tựa văn hóa cho hôm nay.

Khác với thơ cổ vịnh cảnh hoặc giao đãi bạn bè, thơ Nguyễn Trãi thể hiện một quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh, một cách sống, lối sống rất mới. Nhờ vậy, thơ ông mở ra về không gian, nới rộng về thời gian và một chiều sâu thời thế và nhân thế. Thơ mùa xuân Ức Trai là những suy ngẫm sâu sắc về thiên chức nghệ thuật: “Xuân đến hoa nào chẳng tốt tươi/ Ưa mày vì tiết sạch hơn người/ Gác Đông ắt đã từng làm khách/ Há những Bô tiên kết bạn chơi/… Bóng thua ánh nước động người vay/ Lịm đưa hương, một nguyệt hay/ Huống lại bảng xuân xưa chiếm được/ So tam hữu chẳng bằng mày” (“Mai”).

“Gác Đông” tức Đông các, một biểu tượng văn hóa chỉ nơi để quan Tể tướng chiêu hiền đãi sĩ. Hoa mai “từng làm khách” nơi này tức hoa mai cũng được nâng lên thành bậc hiền sĩ như con người xuất chúng. Vì thế mới có câu sau “Há những Bô tiên kết bạn chơi” có nghĩa đâu phải chỉ kết bạn với các vị tiên đáng kính (bô) mà còn nhiều bạn tiên nữa. Hoa mai đẹp sang trọng, thanh khiết, đài các, luôn nở trước mọi thứ hoa, lại đứng đầu bảng các loại hoa xuân nên chiếm “bảng xuân”. Toát ra một quan niệm hoa mai nghệ thuật luôn phải đi trước để làm đẹp, làm sang cho mùa xuân cuộc đời. Có thể còn một ý này: tiên trong ý niệm văn hóa phương Đông luôn sống mãi, hạnh phúc mãi mà hoa mai kết bạn với các vị tiên ấy thì hoa mai nghệ thuật cũng luôn trường tồn với đời sống (!?).

Nghệ thuật phải đánh thức cảm xúc yêu ghét: “Cầm đuốc chơi đêm này khách nói/ Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân” (Cuối xuân). “Tiếng chuông chưa đóng” nghĩa là hãy còn đêm xuân, mà khách xưa (trong tưởng tượng) nói rằng: tiếc xuân nên cầm đuốc chơi đêm! “Tiếng chuông” mang nghĩa ẩn dụ: nghệ thuật phải nhân lên ở con người niềm khát khao được sống nhiều lần trong mùa xuân cuộc đời.

Vì vậy nghệ thuật không thể hời hợt, dửng dưng: “Ba xuân thì được chín mươi ngày/ Sinh vật lòng trời chẳng tây/ Rỉ bảo đông phong hời hợt ít/ Thế thì chớ tiếc, dửng dưng thay” (“Thơ tiếc cảnh 11”). Lời thơ như nhắn gửi nghệ thuật thì phải “chẳng tây” tức không được riêng tư thiên vị, không được “hời hợt”, dửng dưng. Ngày nay người ta hay nói nghệ thuật là sự hy sinh, hết mình. Ức Trai đã nói điều ấy trước nửa thiên niên kỷ!

Mùa xuân là sự hô ứng hòa hợp tuyệt vời giữa con người và tạo vật: “Lầu hồng có khách cầm xuân ở/ Cầm ngọc tay ai dắng dõi thêm” (“Thơ tiếc cảnh 2”). “Cầm xuân” tức giữ mùa xuân lại. “Lầu hồng” đẹp, sang trọng, vương giả, là nơi ở của người đẹp quý phái. “Khách cầm xuân” ở “lầu hồng” là những cô gái đẹp muốn níu giữ mùa xuân. “Cầm ngọc” thì “cầm” là đàn, ý cả câu tả tay người đẹp đánh đàn nghe càng hay thêm. Để tạo nên thế giới nghệ thuật phải có cảnh đẹp (lầu hồng, mùa xuân), có người đẹp tha thiết với cái đẹp (khách cầm xuân), có người tiếp nhận trong tâm trạng chờ đợi, thì tất cả càng đẹp hơn! Đây chính là quan niệm của nghệ thuật hiện đại: cuộc sống – tác giả – tác phẩm – tiếp nhận!

Mỹ học tiếp nhận Nguyễn Trãi thuận chiều với quy luật thời gian: “Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành/ Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình” (“Thơ tiếc cảnh 4”). “Lật” nghĩa là lỡ: đã quá tuổi thiếu niên nên lỡ mất “hẹn lành”, lỡ mất bao ước ao, phí hoài bao khát vọng. Để bây giờ hoa nguyệt (cái đẹp) cũng trở thành vô tình với mình. Một sự tiếc nuối cho những ai không biết sống đích thực ở cái thời hồn nhiên mà mê say, để rồi quá lứa…

Ý thơ hiện đại, mang tầm phổ quát để nói với tất cả mọi người, mọi thời. Nó tôn trọng quy luật tồn tại và phát triển của cái đẹp: “Xuân muộn nào hoa chẳng rụng rơi” (“Thuật hứng 14”). Không ai cưỡng lại được quy luật của thời gian. Cái đẹp cũng vậy. Nhưng nếu biết lấy cái “phúc” làm gốc sẽ bền vững, tự nhiên, trường tồn: “Phúc nhiều sơ bởi nơi ta tích/ Xuân đến tự nhiên mọi vật tươi” (“Bảo kính cảnh giới 11”). “Phúc” ở đây được hiểu là “phúc đức”. Con người “tích phúc”, ắt có hạnh phúc!

Tinh thần mỹ học Nguyễn Trãi luôn cảm nhận cái đẹp trong trạng thái non tơ đang cựa quậy chứ không tròn trịa đã vào thời viên mãn, thậm chí ở thời điểm khởi đầu, bắt đầu: “Xuân chầy liễu thấy chưa hay mặt/ Vườn kín hoa truyền mới lọt tin/ Cành có tinh thần ong chửa thấy/ Tính quen khinh bạc bướm chăng gìn/ Lạc Dương khách ắt thăm thinh nhọc/ Sá mựa cho ai quẩy đến bên” (“Đầu Xuân đắc ý”).

Vì xuân đến chậm nên liễu chưa thấy mặt. “Vườn kín hoa truyền mới lọt tin” tức hoa mới chớm nụ. Hương hoa mới chớm bay ra khỏi vườn kín nên “ong chửa thấy” mà tìm đến nhưng bướm thì chẳng biết giữ gìn nên cứ vô tư đậu vào cành. Đúng là thế giới của cái đẹp “non tơ phong nhụy”, tất cả như đang phập phồng xuân khí. Đất Lạc Dương tức kinh đô Trung Quốc thời Ngũ đại vốn rất đẹp, là nơi tụ hội các thi nhân. Xứ người đẹp thế nhưng nơi này đẹp cũng không kém nên ta chẳng cho (sá mựa) ai quẩy xuân này đến đó mà đem cái đẹp đi. Cũng chỉ mạo muội “diễn nôm” câu thơ để thấy phần nào cái đẹp của ý thơ phải nói là tuyệt bút này. Nhưng có thể hiểu một triết lý của mỹ học Nguyễn Trãi: Cái đẹp là sự khởi đầu… Đặc sắc hơn là nói bằng hình tượng thơ.

Mùa xuân đồng nghĩa với hạnh phúc. Mỹ học về mùa xuân Nguyễn Trãi đồng nghĩa với mỹ học về hạnh phúc, đúng hơn, triết gia đưa ra một “định nghĩa” về hạnh phúc: “Chụm tự nhiêu lều một gian/ Giũ không thay thảy tấm hồng trần/ Nghìn hàng cam quýt con đòi cũ/ Mấy đứa ngư tiều bậu bạn thân/ Thấy nguyệt tròn thì kể tháng/ Nhìn hoa nở mới hay xuân/ Cày ăn đào uống yên đòi phận/ Sự thế chăng hay đã Hán Tần” (“Tự thán 32”).

Hạnh phúc là tự mình lao động trong cảnh hòa bình yên ổn; sống giữa thiên nhiên với căn lều nhỏ, xa với cuộc sống phàm tục; có vườn cam quýt (thay vì là “con đòi” đứng hầu là những hàng cam quýt), có bè bạn là ngư dân hay tiều phu chân chất; sống không quan tâm đến thời gian, lấy cái đẹp tự nhiên làm thước đo thời gian. Điều này lý giải “Quốc âm thi tập” có rất nhiều chữ “nhàn” nghiêng về nghĩa nhàn tâm, không bon chen danh lợi, không vướng tục lụy. Đó là hạnh phúc!

Tiên sinh ưa sự cô đơn, vắng vẻ, thích sống nơi núi rừng sông suối, làm bạn với ngư tiều hơn là chốn phồn hoa đô hội nặng công danh phù phiếm. Ông coi sự “vắng” là một yếu tố trong quy luật sáng tạo nghệ thuật: “Trượng phu non vắng là tri kỷ/ Tiên khách nguồn om ấy cố nhân/ Mấy của yêu đương đà chiếm được/ Lại mong chiếm cả hết hòa xuân” (“Tự thán 11”). “Nguồn om” tức “nguồn im”. Phải nơi “non vắng”, “nguồn om” ấy mới có thể sáng tạo, hơn nữa mới đẩy sự khát khao, ham mê sáng tạo ở mức cao nhất.

Thi nhân cũng rất coi trọng cảm hứng: “Liễu mềm rủ, nhặt đưa hương/ Hứng bợn lầu thơ khách ngại rằng/ Thấy cảnh lòng thơ càng vấn vít/ Một phen tiếc cảnh một phen thương” (“Thơ tiếc cảnh 8”). Có thể hiểu mỗi khi liễu rủ mềm theo gió đưa hương người thơ càng thêm mềm lòng bâng khuâng “tiếc cảnh”. Cảm hứng tiếc xuân nên chẳng muốn nói năng (khách ngại rằng).

Vì muốn chiêm bái, tận hưởng cái đẹp mà có ý trách tạo hóa: “Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân/ Mới trách thanh đồng tin diễn đến/ Bởi chưng hệ chúa Đông quân” (“Thơ tiếc cảnh”). Trách “thanh đồng” tức tiên đồng đem tin đến chậm (diễn nghĩa là xa xôi) làm cho thi nhân mãi mới gặp xuân. Cũng là tại bởi Đông quân (Chúa xuân) cứ muốn giữ xuân lại không cho tiên đồng báo tin sớm. Lời thơ đẹp huyền ảo. Không gian như trở về huyền thoại. Thì ra cái đẹp đích thực ai cũng thích, từ Chúa xuân đến thi nhân cũng đều muốn thưởng thức!

Cảnh xuân bình dị dân dã nhưng tràn đầy sức trẻ, sức sống: “Tự bén hơi xuân tốt lại thêm/ Đầy buồng lạ mùi thâu đêm/ Tình thư một bức phong còn kín/ Gió nơi đâu gượng mở xem” (“Cây chuối”). Trong khi thơ đương thời tràn ngập biểu tượng thanh cao quân tử với “tùng, cúc, trúc, mai” thì một cây chuối chân quê “tốt lại thêm” và tỏa thơm “mùi lạ”!? Theo con đường liên văn hóa truy ngược về đầu nguồn thì cây chuối mới chính là biểu tượng cho kẻ sĩ: ở đâu cũng sống dẻo dai; không chịu gục ngã trước gió bão; cái nõn trắng tinh (tấm lòng quân tử) dù có bị chém ngang, một lúc lại trồi ra thách thức!

Thơ Ức Trai đầy dự cảm, xen vào một chút âu lo. Mùa xuân đang tràn đầy hương sắc bỗng chen một thoáng thảng thốt: “Hoa thường héo, cỏ thường tươi”. Âu đấy cũng là số phận một thiên tài!

NGUYỄN THANH TÚ/VANVN.VN

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm