TIN TỨC

Nhà văn Đới Xuân Việt: Từ thành cổ Quảng Trị đến văn chương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-04-06 05:36:16
mail facebook google pos stwis
1703 lượt xem

TRƯƠNG NAM HƯƠNG

Một ngày đầu Xuân Quý Mão, nhà văn Đới Xuân Việt tặng các bạn văn, thơ ở TP Hồ Chí Minh truyện thơ của ông mới xuất bản "Truyền thuyết Nàng Tuyệt Vời"( NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh 2023). Tôi cũng như nhiều người đọc tác phẩm của ông với sự ngạc nhiên, cảm phục.

Thứ nhất, đây là tác phẩm thơ dài hơi được thực hiện bởi một chàng lính trẻ mới ngoài hai mươi tuổi, lại được viết dưới làn bom đạn trong chiến dịch Quảng Trị năm 1972.

Thứ hai, ông lặng lẽ đến với văn chương không ồn ào để lại những tác phẩm đáng suy ngẫm.


Nhà văn - đạo diễn Đới Xuân Việt.

Thường giữa sự sống và cái chết nơi chiến trận, con người ta ngộ ra nhiều điều về tình đồng đội thiêng liêng, nỗi khát khao cháy bỏng của tình yêu đôi lứa, về người mẹ già mòn mỏi chờ con nơi quê nhà, về sự ra đi không bao giờ trở lại của những người đồng đội còn thân thiết hơn cả ruột thịt. Có ai còn nhớ đến họ không? Có ai đã quên họ không? Tất cả cứ âm ỉ cháy trong trái tim người lính. Nỗi day dứt ấy thúc giục ông cầm bút đến với văn chương.

Cuốn truyện dài đầu tay của ông "Anh chỉ có mình em", rồi tác phẩm thứ hai, tiểu thuyết "Đi qua vừng mặt trời", rồi tiểu thuyết "Hoa Đỗ Quyên nở muộn" (NXB Trẻ), hình tượng người lính cứ trở đi trở lại trong các tác phẩm của ông. Nó phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc chiến, giúp ta chiêm nghiệm nhiều hơn cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài của dân tộc. Trong số đó truyện dài "Anh chỉ có mình em" đã được chuyển thể, dựng thành phim cùng tên, rất nổi tiếng.

Ông viết chậm rãi, nhiều tác phẩm ông viết đi viết lại, tu sửa, hoàn chỉnh trong 10 năm cho đến khi ưng ý thì thôi. Đó là cách làm việc nghiêm túc, cẩn trọng và có trách nhiệm.

Đọc các tác phẩm của ông, người đọc có thể nhận ra cái khát vọng sống mãnh liệt của người lính. Ở "Anh chỉ có mình em", Hoan, người chiến sĩ trở về, đã đấu tranh không khoan nhượng với những trở ngại của cuộc sống để đưa Vân, vợ chưa cưới của anh, một thương binh mất trí nhớ trở lại làm một người bình thường, để được sống và được yêu.

Với "Đi qua vừng mặt trời", Văn - người chiến sĩ có khát vọng sống mãnh liệt: phải sống để hoàn thành nhiệm vụ, phải sống để còn về quê tri ân người thầy đã dạy dỗ mình, phải sống để còn đưa người yêu về thăm quê đi tìm chiếc lá diêu bông trên những cánh đồng hoa cải vàng vùng Kinh Bắc…

Ở "Hoa Đỗ Quyên nở muộn", người cựu chiến binh đã chiến đấu không mệt mỏi để vượt qua số phận nghiệt ngã mà chiến tranh đã xô đẩy ông xuống vực sâu của sự bần hàn và nghèo đói, chỉ để mong có ngày được sống yên bình bên con cháu, giọt máu cuối cùng còn sót lại trong gia đình ông. Cuối cùng, trời đã không phụ ông.

Đọc các tác phẩm của Đới Xuân Việt ta bị cuốn hút và có thể đọc một mạch từ đầu đến cuối. Trước hết, là bởi vì nó có "chuyện", có cái để thưởng thức. Sau nữa, mạch chuyện có khi không theo thứ tự thời gian mà được phát triển theo các vấn đề đã đặt ra. Bên cạnh chất liệu ngồn ngộn của cuộc sống, các chi tiết được xây dựng công phu và chắt lọc. Nhiều chi tiết có ý nghĩa biểu tượng, rất sắc sảo, độc đáo.

Trong "Anh chỉ có mình em", chi tiết con vịt trời đậu trên ngọn đa khiến ta liên tưởng đến câu ca dao "Bao giờ trạch đẻ ngọn đa..." nói đến cái quái gở, cái không có thực. Và khi người mẹ vỗ tay vào thân cây kêu lên: "Con ơi!" thì con vịt trời, chừng như chỉ đợi có vậy, đã vỗ cánh bay đi, lượn quanh trên ngôi làng cổ kính, cất tiếng kêu văng vẳng. Cùng với nó, tiếng kêu "Con ơi!" của người mẹ mất con hẳn vang tới cõi khôn cùng. Nỗi đau mất mát của chiến tranh không chỉ là nỗi đau của một con người, một làng quê mà là nỗi đau của cả một dân tộc chiến đấu cho độc lập tự do đã phải gánh chịu.

Trong "Đi qua vừng mặt trời", Văn, người chiến sĩ đặc công đói lả, lang thang nhiều ngày trong rừng ngập mặn, đã bắt con cá vừa rơi vào lòng thuyền từ cái dải băng chân bị thương của anh, ăn ngấu nghiến. Chi tiết ấy tự thân nó đã biểu lộ khát vọng sống có tính bản năng của con người.

Những chi tiết độc đáo mang tính biểu tượng như thế cũng có nhiều trong cuốn tiểu thuyết "Hoa Đỗ Quyên nở muộn". Đọc "Hoa Đỗ Quyên nở muộn" ta như bị ám ảnh bởi hình ảnh xác người vô thừa nhận lăn đi lăn lại trong chiếc xe bò lọc cọc đi ra nghĩa trang. Rồi một loạt các chi tiết sống động trong cảnh ông Duyên gặp lại vợ con ở chợ âm phủ đã khắc họa thêm nỗi đau mất mát sâu thẳm, không thể cứu vãn được...


Hai tác phẩm mới của nhà văn Đới Xuân Việt.

Bạn đọc còn có thể tìm thấy rất nhiều hình tượng đa nghĩa trong các câu chuyện mà ông kể như con vịt trời trong "Anh chỉ có mình em", chiếc lá diêu bông trong "Đi qua vừng mặt trời", cây hoa Đỗ Quyên trong "Hoa Đỗ Quyên nở muộn"… Các hình tượng này đã mở rộng không gian của câu chuyện, thúc đẩy trí tưởng tượng của người đọc, đem đến những cảm nhận đa chiều.

Điều đặc biệt là trong tất cả các câu chuyện mà Đới Xuân Việt kể, cái kết luôn làm người đọc bất ngờ. Trong "Anh chỉ có mình em", câu chuyện được kết thúc bằng hình ảnh anh lính người Bắc dẫn cô gái phương Nam chạy trên đồng cỏ vùng Kinh Bắc tìm chiếc lá diêu bông, vừa lãng mạn lại vừa sâu sắc. Nó buộc ta phải nghĩ rằng, phải chăng sau những ồn ào của cuộc chiến, hạnh phúc nhất là được trở về với cội nguồn dân tộc, với làng quê bao đời thân thương… Cái kết này tưởng như không ăn nhập gì với câu chuyện, nhưng thật ra nó lại gắn bó máu thịt với toàn bộ câu chuyện.

Ông còn biết cách kéo phông màn cho một vở kịch đã đến hồi kết thúc một cách gọn gàng và súc tích. Còn gì hay hơn, ý nghĩa hơn trong cái kết của câu chuyện "Hoa Đỗ Quyên nở muộn", rằng:

"Có lẽ phải là người làng Nhân Ái, phải là người yêu quê tha thiết thì mới nghe được tiếng rặng dừa hát chăng?".

Văn của Đới Xuân Việt giàu cảm xúc. Ông rất sắc sảo trong việc tả cảnh, từ đồng quê cho đến phố thị. Cảnh trí thiên nhiên trong văn của ông luôn lấp lánh và chứa đầy mật ngọt, đầy ứ lên trong "Đi qua vừng mặt trời", trong "Hoa Đỗ Quyên nở muộn" và trong tản văn "Bốn mùa".

Ta hãy nghe ông tả mùa Xuân về trên phố phường Hà Nội.

"Mùa Xuân đem đến những phong vị riêng cho kinh thành Hà Nội. Những cơn gió cuối cùng của mùa Đông thỉnh thoảng còn kéo về vặt nốt những chiếc lá vàng trên hàng cây cơm nguội và rú rít dọa dẫm nơi góc phố, mái nhà, len lỏi vào những chiếc áo khoác sờn cũ của ông già hoặc chiếc khăn trùm đầu của một bà lão nào đó có việc phải dò dẫm ra đường. Nhưng dù chúng có gào thét, van nài, láu lỉnh thế nào đi chăng nữa cũng không cản được dòng nhựa xuân đang trào ra trên chồi non, lá biếc trong không gian ngời sáng, trang trọng của ngày Xuân".

Tôi thực sự yêu cùng ông với cảnh sắc trong tập tản văn "Bốn mùa" mà ông đã dầy công bày lên mâm cỗ văn chương cho ta thưởng thức. Hãy nghe ông kể về mùa Xuân:

"Trời đất hây hẩy gió, những cơn gió đầu Xuân mơn man da thịt, vừa ấm lại vừa lạnh. Mở cửa cho mùa Đông ra đi, trời đất lại mở lòng đón những cơn mưa bụi lất phất, nhỏ li ti, sáng lấp lánh như những hạt ngọc trên chồi non, lá biếc...".

Thật độc đáo và thú vị khi ông nói về mùa Thu, mùa của tình yêu đôi lứa:

"Khi những ngọn gió heo may bắt đầu thổi về, cái ngột ngạt của mùa Hè chết lịm đi trong đôi mắt xanh sâu thăm thẳm của mùa Thu".

Ông nhìn nghiêng, nhìn ngửa bốn mùa và cho ta cảm nhận mới lạ. Nếu như "mùa Xuân giống như cô gái tóc xõa ngang vai, đôi mắt to tròn lấp lánh, trìu mến nhìn ta dịu dàng, tha thiết" thì mùa Thu lại giống như cô con gái đẹp chưa một lần yêu:

"Mùa Thu không thì thầm, không náo nhiệt nhưng cứ mở to mắt nhìn, cứ lặng lẽ nhìn thôi"…

"Bốn mùa" đã để lại nỗi khát khao mơ hồ cứ âm ỉ cháy trong ta.

Đới Xuân Việt lặng lẽ đem đến cho làng văn khát vọng sống của con người, các chi tiết điển hình với tính biểu tượng cao, chất trữ tình, lãng mạn và những đoạn văn tả cảnh tuyệt vời. Chừng ấy thôi cũng đủ để bạn đọc nhớ đến một Đới Xuân Việt tinh tế và trữ tình.

Tôi cũng như nhiều bạn đọc đang hồi hộp chờ đón một tập truyện ngắn gồm 9 truyện của ông đã hoàn thành, sắp được xuất bản, cũng như cuốn ký sự dài hơi đang trên đường về đích.

Đới Xuân Việt rất đa tài. Nghe đâu ông đang ấp ủ chuyển thể tiểu thuyết "Hoa Đỗ Quyên nở muộn" thành phim chiếu rạp. Chúc ông thành công và may mắn như bộ phim "Anh chỉ có mình em".

Nguồn: https://vnca.cand.com.vn/Ly-luan/nha-van-doi-xuan-viet-tu-thanh-co-quang-tri-den-van-chuong

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm